Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 12/09/2013 22:56 (GMT+7)

“Cánh đồng mẫu lớn” - Mô hình liên kết “Bốn nhà” bước đầu có hiệu quả ở Đồng bằng sông Cửu Long

Những năm qua, Việt Nam liên tục là nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai trên Thế giới. Riêng năm 2011, Việt Nam đã xuất khẩu hơn 7,2 triệu tấn, thu về hơn 3,5 tỷ USD. Năm 2012, theo dự kiến nước ta sẽ xuất khẩu từ 6,5 - 7 triệu tấn gạo, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm hơn 80% sản lượng gạo xuất khẩu. Mặc dù xuất khẩu nhiều, nhưng gạo xuất khẩu Việt Nam chủ yếu là loại phẩm cấp thấp và đang bị cạnh tranh gay gắt từ các nước khác trong khu vực. Nguyên nhân là do sản xuất lúa gạo nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng vẫn còn dựa vào nông hội cá thể là chủ yếu nên quy mô manh mún, các kỹ thuật tiên tiến không được áp dụng đồng nhất làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Việc tiêu thụ lúa bị động, đầu ra hạt gạo không ổn định, sức cạnh tranh trên thị trường thế giới chưa lớn làm cho hội nông dân luôn thua thiệt. Tình trạng sản xuất nhỏ lẻ đã hạn chế lợi nhuận của hội nông dân ở mức rất thấp nên đời sống của nông dân chậm được cải thiện. Mối liên kết giữa người sản xuất, người tiêu thụ, nhà khoa học và Nhà nước chưa chặt chẽ.

Vì vậy để nâng cao giá trị gạo xuất khẩu, nâng cao thu nhập của hộ nông dân, nâng cao giá trị gạo xuất khẩu của Việt Nam trên trường quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông đã đưa ra Chương trình “Mô hình cánh đồng mẫu lớn tiến tới xây dựng Vùng nguyên liệu lúa xuất khẩu và sản xuất lúa theo VietGAP”. Mục tiêu của Chương trình là nhằm tạo ra vùng nguyên liệu lúa xuất khẩu theo VietGAP hoàn chỉnh là khép kín từ khâu sản xuất đến thu hoạch, tồn trữ, bảo quản, chế biến, thu mua; tăng năng suất, giảm giá thành, tăng lợi nhuận, đạt giá trị cao nhất cho sản xuất nông nghiệp, tạo ra sự liên kết của nông dân trên một cánh đồng để thống nhất thực hiện quy trình sản xuất tiên tiến và gắn kết với thị trường tiêu thụ, gắn kết giữa các doanh nghiệp và hộ nông dân, Nhà nước và khoa học. Mặt khác, cánh đồng mẫu lớn (CĐML) sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành nông nghiệp quy hoạch vùng sản xuất lúa chất lượng cao theo hướng bền vững; giúp nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất hàng nông sản theo hướng tập trung đối với khối lượng lớn, chất lượng cao, trên cơ sở đó góp phần tăng thu nhập, ổn định cuộc sống của người nông dân ở đây 4 nhà: Nhà nước, nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học cùng bắt tay với nhau để tạo ra giá trị hạt gạo cao và thu nhập cho hộ nông dân. CĐML cũng là cách để đưa ra “Nông hộ nhỏ ra cánh đồng lớn” để nâng cao toàn bộ chuỗi giá trị của người sản xuất lúa và người kinh doanh lúa gạo, và đóng góp vào việc nâng cao sức cạnh tranh của ngành lúa gạo nước ta trên thị trường quốc tế.

Mô hình CĐML là sự cụ thể hóa chủ trương xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng tại Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 và Chỉ thị số 24/2003/CT-TTg về xây dựng vùng nguyên liệu gắn liền với chế biến tiêu thu. Xây dựng CĐML cũng là một giải pháp quan trọng lâu dài góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững được nêu trong Nghị quyết số 21/2011/QH13 ngày 26/11/2011 của Quốc hội.

Mô hình CĐML đầu tiên được triển khai và áp dụng ở ĐBSCL, tại An Giang do Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang thực hiện từ năm 2010, đến nay đã trở thành một trong những điển hình tiêu biểu nhất trong việc thực hiện chủ trương của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tháng 3/2011, mô hình CĐML được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát động xây dựng, nhân rộng tại các tỉnh ĐBSCL. Ngay trong vụ hè năm 2011, toàn khu vực ĐBSCL đa có 13 tỉnh, với 6.400 hộ tham gia xây dựng CĐML, đạt 7,800 ha. Đến vụ đông xuân 2011-2012, diện tích CĐML đã tăng lên 15.500 ha trong đó 8 tỉnh phát triển mạnh gồm: Long An, Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cần Thơ, Trà Vinh, Tây Ninh.

Những hộ nông dân khi đăng ký tham gia mô hình sẽ được tập hợp thành tổ, nhóm sản xuất, đều phải mở sổ ghi chép, theo dõi quá trình sản xuất. Đây chính là cơ sở để người nông dân đánh giá hiệu quả kinh tế khi sản xuất lúa sau mỗi mùa vụ, cơ sở để đánh giá công nhận chất lượng lúa đạt tiêu chuẩn khi có yêu cầu, đặc biệt là tiêu chuẩn VietGAP. Những CĐML này thường có mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp cụ thể bằng hợp đồng. Khi đó công ty đầu tư ứng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật không tính lãi và cử cán bộ kỹ thuật xuống trực tiếp cùng bám đồng ruộng, hướng dẫn nông dân.

(Chú thích ảnh Hội nghị “Cánh đồng mẫu lớn” do Tạp chí Kinh tế và Dự báo (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và Cục trồng trọt ( Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) tổ chức tại Hà Nội, ngày 18/7/2012)

Hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp và hộ nông dân rất đa dạng, theo điều kiện thực tế và sáng tạo của từng địa phương, nhưng cơ bản đã đạt được các bước: cung ứng lúa giống xác nhận ( một đến hai loại); cung ứng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật từ doanh nghiệp đến thẳng người nông dân, không qua trung gian; hợp tác với doanh nghiệp thu mua lúa hoặc doanh nghiệp đứng ra tổ chức khép kín các khâu, từ cung ứng đầu vào đến bao tiêu đầu ra cho nông dân; tập hợp nông dân tham gia mô hình theo hình thức phân chia các nhóm sản xuất, có người phụ trách, cứ 2 nhóm sản xuất có một cán bộ kỹ thuật của tỉnh (hoặc huyện) trực tiếp hướng dẫn. Có tỉnh tổ chức hợp tác xã, hoặc tổ hợp tác sản xuất. Nhà nước hỗ trợ nông dân tiền chênh lệch khi mua giống lúa xác nhận (so với lúa thường), định kỳ tập huấn kỹ thuật cho nông dân (3/4 lần/vụ), hỗ trợ 30 - 50% tiền đầu tư máy móc, công cụ sạ hàng, lò sấy, thùng pha thuốc bảo vệ thực vật. Công ty cổ phần phân bón Bình Điền bán phân theo giá gốc, hỗ trợ chi phí vận chuyển và cho nông dân trả chậm sau 4 tháng (tức bán phân đầu vụ và sau khi nông dân thu hoạch lúa xong mới thu tiền). Các công ty: Bảo vệ thực vật An Giang, Gien Traco, Angimex, Công ty lương thực Long An… cung ứng giống với lãi suất 0%, thu mua lúa với giá cao hơn thị trường từ 150 đến 300 đồng/kg…

Mặc dù mới trong giai đoạn thử nghiệm, nhưng mô hình CĐML ở ĐBSCL bước đầu đã mang lại những kết quả tích cực.

Một là,mô hình CĐML đã gắn kết 4 nhà: nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và Nhà nước với nhau, điều mà trong sản xuất nông nghiệp trước đây không thể thực hiện được. Ở đây, doanh nghiệp là người chịu trách nhiệm đến cùng với người nông dân từ cung ứng vật tư đến thu mua sản phẩm, chế biến tiêu thụ, giảm được chi phí trung gian, giá thành sản xuất, tăng lợi nhuận và tăng thu nhập cho hộ nông dân; giải quyết được vấn đề cơ bản là nỗi lo của nhà nông về việc tiêu thụ sản phẩm lúa gạo. Các cán bộ khoa học có điều kiện trực tiếp giúp nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất hàng nông sản để thực hiện: “3 giảm, 3 tăng” (giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng thuốc trừ sâu, giảm lượng phân đạm; tăng năng suất lúa, tăng chất lượng lúa, tăng hiệu quả kinh tế); “1 phải, 5 giảm” (phải dùng giống lúa xác nhận, giảm lượng nước vừa đủ, giảm thất thoát sau thu hoạch, giảm lượng giống gieo sạ, giảm sự dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm phân bón), hoặc tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, Hộ nông dân không còn sản xuất theo kinh nghiệm cổ truyền, manh mún, nhỏ lẻ…

Đặc biệt, qua mô hình CĐML có thể thấy, cơ bản đảm bảo được các mặt: nguồn cung đầu vào định (giống, phân, thuốc bảo vệ thực vật), chất lượng được nâng cao (do kiểm soát canh tác bằng quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt), được gắn kết đầu ra bằng hợp đồng kinh tế; tổng lượng hàng hóa thu được (lúa hàng hóa - gạo thương phẩm) chất lượng, ổn định; xây dựng được thương hiệu xuất khẩu; các chính sách hỗ trợ được phân chia từ gốc đến ngọn mà không bị rơi rụng qua các khâu trung gian… Một mô hình khép kín tương đối hoàn chỉnh đó đã và sẽ giúp các doanh nghiệp sản xuất, chế biến các sản phẩm phục vụ nông nghiệp, doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu lúa gạo, ngân hàng, trang trại, hợp tác xã nông dân… liên kết lại, chấm dứt sản xuất manh mún, cạnh tranh thiếu lành mạnh, hướng đến một mô hình các tập đoàn sản xuất nông nghiệp hiện đại trong tương lai…

Hai là,từ CĐML sẽ dần dần hình thành những người nông dân mới, biết sản xuất lúa theo đơn đặt hàng, theo nhu cầu tiêu thụ, xuất khẩu đặc biệt là ghi chép quy trình sản xuất và chi phí vào sổ theo tiêu chuẩn VietGAP. Người nông dân tính toán được giá thành mỗi vụ, chi phí đầu vào, đầu ra sản xuất, từ giống, phân bón, thuốc trừ sâu… đến ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, biết gắn sản xuất với thị trường, sản xuất ra sản phẩm chất lượng, an toàn đạt hiệu quả kinh tế cao, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe bản thân và cộng đồng. Khi nông nghiệp phát triển người nông dân sẽ thực hiện 3 không: Không cấy lúa (mà reo mạ), không gặt đập bằng tay (mà bằng máy liên hợp), không phơi lúa (mà sấy)… thì ngày công lao động sẽ giảm, người nông dân sẽ có thêm điều kiện để nâng cao kiến thức về mọi mặt. Đó sẽ là một trong những điều kiện góp phần xây dựng nông thôn mới. Mô hình liên kết “chuỗi giá trị” CĐML không chỉ giải quyết đầu vào và đầu ra cho cây lúa, mà còn hướng tới chất lượng và hiệu quả, hướng dẫn người nông dân làm ăn lớn và hội nhập là xu hướng đi lên hiện đại của nền sản xuất nông nghiệp.

Ba là,xây dựng mô hình sản xuất theo hướng CĐML là con đường ngắn nhất tiến tới hình thành vùng nguyên liệu quy mô lớn thông qua mối liên kết bốn nhà, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về năng suất giữa các hộ nông dân, các thửa ruộng, các vùng sản xuất, đảm bảo lịch thời vụ gieo sạ đồng loạt theo từng vùng, áp dụng quy trình sản xuất theo hướng thực hành tốt (GAP) trên cơ sở các kỹ thuật đã được ứng dụng rộng như “3 giảm, 3 tăng” hay “1 phải, 5 giảm”, ứng dụng được cơ giới hóa trong sản xuất, từ khâu quy hoạch, đến phơi sấy đúng quy trình, đảm bảo số lượng và chất lượng gạo xuất khẩu ổn định, từ đó xây dựng được thương hiệu hàng hóa cho gạo Việt Nam.

Do diện tích canh tác bình quân của từng hộ nông dân ta rất nhỏ, chỉ khoảng 1,08 ha/hộ trong khi việc sản xuất lúa ngày càng hiện đại, những cánh đồng lớn, những vùng nguyên liệu đủ sức cung ứng cho chế biến xuất khẩu của mô hình CĐML là kiểu “ tích tụ ruộng đất” rất linh hoạt, hay còn gọi là “tích tụ ruộng đất mềm” từ vài nghìn đến vài chục nghìn ha là yêu cầu tất yếu.

Bốn là,đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp được lợi vì đảm bảo về nguồn hàng cho xuất khẩu, cả về số lượng và chất lượng. Hộ nông dân cũng được lợi vì không phải chịu cảnh ép giá của tư thương khi lúa thu hoạch rộ. CĐML tạo điều kiện để hình thành thương hiệu cho lúa gạo Việt Nam xây dựng vùng sản xuất đủ tiêu chuẩn. CĐML từng bước giúp nông dân sản xuất theo đơn đặt hàng và theo kế hoạch cụ thể. Nước ta hiện nay có 210 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo, nếu mỗi doanh nghiệp xây dựng cho mình vùng nguyên liệu rộng 10 nghìn ha thì sẽ có ít nhất 210 nghìn ha sản xuất lúa nguyên liệu, chiếm khoảng 12,7% diện tích canh tác. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ngành xuất khẩu gạo Việt Nam.

Năm là,về mặt xã hội, ý nghĩa hết sức nhân văn của mô hình là tạo dựng cánh đồng lớn nhưng không dẫn đến tích tụ đất đai, không buộc người nông dân phải rời khỏi mảnh ruộng nhà mình để đi làm thuê, làm mướn; sẽ có nhiều hộ nông dân trên cánh đồng lớn được bình đẳng về ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cho quy trình sản xuất, được biết rõ lợi nhuận từ mảnh ruộng của mình sau mỗi vụ gieo trồng. Chính CĐML là mô hình thỏa mãn được phần lớn các yêu cầu của một nền nông nghiệp mới, nông thôn mới, tầng lớp nông dân mới.

Tuy vậy, việc xây dựng CĐML ở ĐBSCL những năm qua vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, đồi hỏi cả Nhà nước, hộ nông dân cũng như các doanh nghiệp tham gia vào mô hình phải cùng nhau giải quyết.

- Nhận thức của người nông dân về hình thức liên kết còn nhiều hạn chế. Một số vì tư lợi trước mắt không tuân thủ theo hợp đồng đã ký với doanh nghiệp do đó đã phá vỡ hợp đồng, là thiệt hại cho doanh nghiệp, phá vỡ kế hoạch cung ứng, xuất khẩu, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững.

- Một số địa phương, khi hình thành được các vùng sản xuất tập trung đã gặp phải khó khăn về tiêu thụ sản phẩm, không có kho bảo quản… dẫn đến hao hụt, thất thoát, sản phẩm hư hỏng. Các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn cũng chỉ đáp ứng được phần nào các tiêu chí CĐML, vẫn còn trồng nhiều loại giống khác nhau; quy mô nhỏ lẻ, quy trình canh tác không đồng nhất, chất lượng sản phẩm chưa cao.

- Việc triển khai mô hình này còn nhiều khó khăn, vì phần lớn nông hộ trồng lúa có diện tích nhỏ, chưa có hướng sản xuất lúa hàng hóa theo quy mô lớn; nông dân chưa tiếp cận được nhiều với tiêu chuẩn VietGAP.

- Trình độ nông dân không đồng đều, khó tiếp thu khoa học - công nghệ; mối liên kết 4 nhà chưa chặt chẽ, nhiều nơi thiếu doanh nghiệp tham gia vào tiêu thụ sản phẩm…

Mô hình CĐML thực hiện ở ĐBSCL thời gian qua đã đạt được những thành công, song đó mới chỉ là sự thể nghiệm bước đầu, một cách làm mới, xóa bỏ hình thức sản xuất nhỏ lẻ của kinh tế hộ nông dân của nước ta. Tuy vậy, để mô hình nhân rộng một cách vững chắc, như định hướng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: đến hết năm 2012 có từ 40 đến 80 nghìn ha, năm 2013 đạt 100 đến 200 nghìn ha, tiến tới vùng sản xuất lúa nguyên liệu một triệu ha vào năm 2015, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.

Trước hết,phải có sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp cần tham gia với tinh thần đồng hành và sẻ chia tích cực vì lợi ích cao nhất của người nông dân, vì sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp nước nhà. Nếu 123 doanh nghiệp hiện có của Hiệp hội Lương thực Việt Nam cùng tích cực xây dựng cho mình một vùng nguyên liệu từ một nghìn đến vài nghìn ha, thì cả nước đã có vùng nguyên liệu ổn định từ 200 đến 500 nghìn ha. Tùy từng vùng sản xuất mà có đầu tàu, làm hạt nhân liên kết, tập hợp “các nhà” lại, nhưng phải có tính nhân văn, minh bạch, công khai. Chính lợi ích sẽ gắn kết các nhà và khi mà mọi nhà trong mô hình đều có lợi ích thiết thực thì đương nhiên mô hình sẽ tồn tại và phát triển.

Hai là,để xây dựng được CĐML, phải bất đầu từ nhận thức của người nông dân về sự đồng thuận sản xuất, hợp tác làm ăn, không phá vỡ hợp đồng… Bên cạnh đó, Nhà nước phải có chính sách khuyến khích, có chế tài xử phạt phù hợp, kịp thời đối với tất cả doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức vi phạm hợp đồng, để bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp và hộ nông dân.

Ba là,tăng cường công tác khuyến nông, tập huấn, hướng dẫn ứng dụng, chuyển giao thành tựu khoa học nông nghiệp hiện đại cho nông dân. Bên cạnh đó là chính sách về đào tạo nguồn nhân lực, chính sách ưu đãi đối với các kỹ sư nông nghiệp, như mô hình “ Bạn của nông dân” mà công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang ứng dụng trong xây dựng mô hình CĐML những năm qua…

Bốn là,mô hình CĐML hiện mới là thí điểm, để mô hình phát triển hơn nữa, chính quyền địa phương phải tham gia tích cực, trực tiếp chỉ đạo, huy động lực lượng để xây dựng CĐML. Cần huy động cả hệ thống chính trị ở cơ sở để phổ biến rộng rãi chủ trương, sự cần thiết, tính hiệu quả của việc xây dựng CĐML gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Đồng thời, làm rõ trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi bên khi tham gia, từ chính quyền đến HTX, doanh nghiệp, hộ nông dân để tạo ra mối liên kết chặt chẽ và bền vững trong quá trình thực hiện. Về lâu dài, phải tính đến việc đào tạo đội ngũ quản lý mô hình chuyên nghiệp, củng cố lại hoạt động các HTX sản xuất nông nghiệp trong hệ thống liên minh HTX hiện nay…

Ngoài ra, cần tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp chung tay xây dựng nông thôn mới bằng hình thức liên kết xây dựng CĐML, với tư cách vừa là “ bà đỡ” hỗ trợ nông dân, vừa là người hưởng lợi từ chương trình liên kết, trong quá trình xây dựng phải được thảo luận dân chủ để có sự đồng thuận cao của chính quyền HTX, doanh nghiệp, các hộ dân trong các cánh đồng được lựa chọn về cơ cấu, thời vụ, loại giống, phương thức sản xuất, tiêu thụ…

Năm là,Nhà nước phải đầu tư hệ thống hạ tầng hoàn chỉnh để tạo điều kiện thận lợi cho sự liên kết 4 nhà trong CĐML. Điều này gắn chặt với công tác triển khai xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới mà Đảng, Nhà nước cùng nhân dân cả nước đang chung tay xây dựng. Ưu tiên đầu tư thủy lợi và tạo điều kiện phát triển mô hình CĐML trên toàn vùng ĐBSCL. Đặc biệt là thiết kế lại đồng ruộng để thuận lợi cho cơ giới hóa, hoàn thiện thủy lợi nội đồng, nâng cấp giao thông đến cánh đồng, hỗ trợ nông dân mua máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, thu hoạch, ưu tiên bảo hiểm nông nghiệp, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào CĐML, tích tụ đất đai quy mô hợp lý…

Sáu là,cần có sự kết nối chặt chẽ giữa hộ nông dân sản xuất trong CĐML với doanh nghiệp và thị trường, đây là vấn đề khó nhất để mở rộng CĐML. Vì vậy, Nhà nước cần mở ra nhiều hướng để xử ký vấn đề trên. Trong những năm qua, các doanh nghiệp thường ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với nông dân, nhưng hiện nay nhiều doanh nghiệp không tổ chức được việc thu mua trực tiếp với nông dân do nhiều nhân lực, thiếu kho tàng nên chủ yếu mua lúa qua thương lái, hoặc mua gạo nguyên liệu. Trong điều kiện đó, cần nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để đa dạng hơn các phương thức tiêu thụ như: nông dân tham gia cổ phần trong doanh nghiệp kinh doanh gạo; đấu thầu tiêu thụ CĐML ở giai đoạn lúa chín; một bộ phận nông dân ở CĐML trở thành thương lái làm dịch vụ vận chuyển, thu mua lúa cho doanh nghiệp… giúp doanh nghiệp chuyên tâm hơn trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, Nhà nước cũng cần chú ý đến việc cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo cho doanh nghiệp tham gia vào mô hình.

Mô hình CĐML không chỉ dừng lại ở cây lúa, mà nó sẽ lan tỏa trên nhiều lĩnh vực sản xuất khác trong nông nghiệp, nông thôn. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng nhờ sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhiều địa phương, kết quả triển khai mô hình này trong thời gian qua bước đầu đã trở thành phong trào và đã được các hộ nông dân ĐBSCL hưởng ứng mạnh mẽ, được coi là một hướng đi quan trọng trong sản xuất lúa gạo nói riêng, sản xuất nông nghiệp nói chung trong thời gian tới.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.