Cần điều chỉnh quy hoạch theo đặc thù sinh thái
Đó là khẳng định của GS.TS Võ Tòng Xuân về ảnh hưởng của thời tiết đến đời sống sản xuất trên “vựa lúa”.
Ông Xuân nói: Thời tiết vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Thực tế chứng minh, nơi nào được đầu tư thỏa đáng các công trình kiểm soát, điều tiết nước là nơi đó vẫn còn an toàn trước những nhiễu động của thời tiết. Phần lớn cây trồng, vật nuôi bị thiệt hại là do yếu tố ngoài thời tiết. Trong khi đó, những bất hợp lý trong công tác quy hoạch, thiếu đồng bộ trong đầu tư các công trình dẫn ngọt, ngăn mặn, chương trình “ngọt hóa” đã chọc thiên nhiên nổi giận”.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu, nguy cơ nước biển xâm chiếm đất nông nghiệp, nhiều ý kiến cho rằng việc đầu tư các công trình “ngọt hóa” là rất cần thiết. Về điều này, ông Xuân cho rằng: “Đúng là chống biến đổi khí hậu rất cấp thiết, nhưng nếu chỉ chống bằng cách “ngọt hóa” như thời gian qua thì chưa phải là cách khôn ngoan nhất. Bởi đây là việc đòi hỏi kinh phí rất lớn, trong khi đó nước ta còn nghèo, còn nhiều công trình cần ưu tiên kinh phí hơn để tạo ra bước đột phá cho xã hội như giáo dục, công nghệ...
Thực tế cho thấy, dù rất được ưu tiên, nhưng do kinh phí có hạn nên chương trình “ngọt hóa” thiếu đồng bộ trong quy hoạch hệ thống thủy lợi tưới - tiêu, vì thế thường xảy ra mâu thuẫn giữa khả năng cung ứng và nhu cầu sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi.
Trong khi đó, công tác quy hoạch và kiểm soát chặt vùng nuôi trồng lại thiếu được quan tâm, khi người dân tự ý phá vỡ quy hoạch mà không ai có quyền ngăn cản họ, dẫn đến tình trạng cùng chung một dòng kênh nhưng người dân lại nuôi trồng nhiều loại cây-con trái ngược nhau về nhu cầu nước, nghĩa là làm gia tăng nguy cơ thiệt hại ngoài... thời tiết.
Theo tính toán của chúng tôi, ngay cả khi việc đầu tư có đồng bộ thì chương trình “ngọt hóa” cũng không mang lại hiệu quả kinh tế hơn so với việc khai thác theo đặc thù sinh thái vùng mặn. Đó là chưa nói đến yếu tố bền vững.
“Ngọt hóa” đồng nghĩa với diện tích rừng ngập mặn bị giảm, môi trường sinh sản của nhiều loài hải sản, động vật sinh sống tại đó bị ảnh hưởng. Nguồn lợi thiên nhiên suy giảm đã đành, chuyện chắn gió, chống sạt lở bờ biển cũng ảnh hưởng theo...”.
Đề xuất giải pháp khai thác để vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa giữ được sự bền vững của môi trường, ông Xuân cho biết: “Theo tôi, vùng ngập mặn ở ĐBSCL sở hữu nhiều tài sản mà khoa học hiện nay chưa khám phá hết được. Nước mặn đã thực sự là một lợi thế lớn, thậm chí nó còn được xem như quyền năng mà các tỉnh vùng ngọt của đồng bằng không sao có được. Cho nên chúng ta nên quy hoạch theo đặc thù sinh thái vùng. Không nên “ngọt hóa” ngược với thiên nhiên. Vùng mặn cần được quy hoạch thủy lợi phục vụ nuôi tôm theo khoa học thay vì trồng lúa.
Một thí dụ rất điển hình là vùng mặn Kalimantan của Indonesia được quy hoạch thành vùng nuôi tôm công nghiệp giàu có. Theo đó, Chính phủ đứng ra vay tiền của Ngân hàng Thế giới đầu tư hệ thống thuỷ lợi phù hợp cho trên 4.000ha đất vùng mặn.
Nước lấy vào vuông tôm hay thải ra, đều có hệ thống xử lý riêng biệt, không gây ảnh hưởng môi trường - Nông dân chỉ việc đến nhận đất, nuôi tôm theo định hướng, kế hoạch cụ thể dưới sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật.
Nước thải từ các vuông đổ vào khu vực xử lý sinh học bằng cách thả nuôi các loại ốc, vọp... để thanh toán lượng thức ăn dư thừa của tôm. Nước xử lý xong, đưa qua tiếp một khu rừng ngập mặn để đảm bảo lọc sạch trước khi đổ ra biển. Một việc làm có nhiều lợi ích”.








