Cấm đi xe máy trong nội thành – Nhìn ra thế giới và kinh nghiệm Trung Quốc
Phát biểu tại buổi làm việc với Tp. Hồ Chí Minh sáng ngày 23/9/2011, tân Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng đề nghị Thành phố có lộ trình hạn chế xe máy, trước hết cấm ở một số tuyến phố, sau đó sẽ mở rộng. Ông nói: “Những thành phố văn minh trên thế giới họ làm được thì tại sao ta không làm được? Các nước trong khu vực và Trung Quốc làm gì có xe máy lưu thông ở các thành phố lớn?”. Lãnh đạo thành phố đã tiếp thu và đề nghj Bộ GTVT chủ trì để thành phố sớm xây dựng được đề án hạn chế và lộ trình cấm xe máy tham gia giao thông trên địa bàn, đồng thời với ưu tiên tập trung vốn đầu tư cơ sở hạ tầng và hệ thống vận chuyển công cộng. Đây là một việc làm đúng chiến lược tiên tiến về quản lý đô thị toàn cầu, mà mọi người đã mong đợi từ lâu.
Nhìn ra thế giới, các quốc gia tiên tiến phương Tây đã cấm xe máy đi nội thành từ rất lâu và thu được nhiều lợi ích. Người dân có thói quen tốt đi bộ từ nhà ra bến xe và từ bến xe tới công sở, cũng có lợi cho sức khỏe; Khu vực các nước ASEAN ngoại trừ Việt Nam và Cawmpuchia còn các nước khác như Singapore, Thái Lan, Malaysia, Mianma, kể cả Lào… hầu như đều không có xe máy đi trong thành phố. Đặc biệt ở Trung Quốc, năm 2007 đi đầu là từ thành phố Quảng Châu rồi phát triển đến Côn Minh, Vũ Hán, Hàng Châu, Bắc Kinh, Thượng Hải và nay là 92 thành phố lớn trên cả nước cấm xe gắn máy lưu thông. Thực tế đã chứng minh, sau biện pháp này đã thu được nhiều lợi ích và kết quả tốt đẹp, khung cảnh đô thị yên bình hơn, không khí trong lành hơn, giao thông êm thuận an toàn hơn, hình ảnh thành phố văn minh hơn, điều kiện và chất lượng sống của người dân tốt hơn.
Lợi ích của việc cấm xe máy lưu thông trong nội thành không còn cần phải bàn thêm, nhưng cách thức, thể chế và lộ trình phải nghiên cứu thật kỹ lưỡng chu đáo, vì đây là vấn đề nhạy cảm gần như đụng chạm đến toàn xã hội nên việc thực hiện cũng khá phức tạp và khó khăn, sẽ có cả những ý kiến trái chiều và một số hệ quả không mong muốn. Kinh nghiệm của thành phố Quảng Châu, Trung Quốc là một điển hình.
Thiệt thòi và phản ứng nhanh nhất là các chủ doanh nghiệp sản xuất xe máy cùng với các cửa hàng kinh doanh và hệ thống cơ sở dịch vụ bảo trì, sửa chữa, rồi đến những người lái xe ôm mà đa phần là dân nhập cư sống nhờ vào công việc này… Cuối cùng gay cấn nhất vẫn là đông đảo người sử dụng vì đã quen với chiếc xe như người bạn thân thuộc gắn bó trong cuộc sống hàng ngày, đã quen bước ra khỏi cửa là lên xe đi thẳng đến tận nơi làm việc, giữa giờ muốn tranh thủ đi đâu cũng tiện, hết giò chủ động đi đón con hoặc ghé vào chợ mua nhoáng cái là đủ hàng tiêu dùng về cho gia đình… Thuận tiện như thế mà nay phải nói không với xe máy của mình thì thật là khó, bởi cái gì đã trở thành thói quen, lại có lợi ích cao mà phải từ bỏ thì quả là không dễ dàng chút nào.
Bãi phế liệu thu gom xe máy ở Quảng Châu chờ tiêu hủy
Từ nhận thức như vậy nên Chính quyền thành phố Quảng Châu không lựa chọn phương pháp đột ngột hoặc nóng vội, quyết liệt dứt điểm mà kéo dài suốt 16 năm, từ năm 1991 đến 2007. các biện pháp đưa ra được thắt chặt dần dần, khởi đầu bằng việc hạn chế lượng xe đăng ký mới, cấm xe ngoại tỉnh, hạn chế xe đi vào một số tuyến đường… các quyết sách tiếp theo dựa trên khảo sát và tham vấn của các chuyên gia, đảm bảo tính phù hợp và đạt hiệu quả cao. Có thể tổng hợp tóm tắt như sau:
Mục tiêu:
Kết hợp hài hòa giữa việc cấm đi xe máy nội thành với việc đảm bảo được lợi ích chung của người dân.
Nguyên tắc phương pháp:
- Khẩn trương, liên tục nhưng không nóng vội, không gây xáo trộn xã hội;
- Đồng bộ lộ trình hạn chế xe máy song song với thực thi đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và mở rộng hệ thống giao thông công cộng tiên tiến (các loại xe buýt, đường sắt trên cao, tàu điện ngầm…). Lấy việc cấm xe máy làm thời cơ, động lực phát triển giao thông công cộng để thực thi cấm xe máy thành công;
- Kịp thời có cơ chế, chính sách cần thiết, thích hợp để ổn định xã hội.
Quá trình thực hiện được chia thành 3 giai đoạn phân kỳ giãn cách nhau, tạo điều kiện cho người dân quen dần với tình thế mới.
Giai đoạn I: (Mở đầu) 1991-1995:
Trọng điểm: Tuyên truyền và vận động đồng thuận-Giới hạn xe đăng ký mới-Cấm đi đi vào một số tuyến phố-Cấm xe ngoại tỉnh-Củng cố và duyệt dự án nâng cấp đường sá và tăng cường hệ thống vận chuyển công cộng. Các việc chính:
- Tất cả cơ quan truyền thông đều mở đợt tuyên truyền, giải thích, vận động.
- Cấm xe máy ngoại thành vào nội thành từ 7 giờ đến 19 giờ hàng ngày.
- Hạn ché xe máy đăng ký mới từ 3.000 xuống 500 xe mỗi tháng.
- Duyệt dự án nâng cấp đường sá và tăng cường hệ thống vận chuyển công cộng.
Giai đoạn II: (Quá độ) 1966-2001:
Trọng điểm: Đẩy mạnh đầu tư, kêu gọi, vận động mọi nguồn để thực hiện dự án nâng cấp đường sá và tăng cường hệ thống vận chuyển công cộng: Các loại xe buýt, đường sắt trên cao, tàu điện ngầm… sao cho đến khi cấm đi xe máy thì đã có các phương tiện khác đáp ứng đủ nhu cầu đi lại của nhân dân. Các việc chính:
- Chấm dứt đăng ký xe máy mới.
- Cấm xe máy chạy vào một số tuyến đường.
- Cấm hoàn toàn xe máy các tỉnh vào thành phố cả ngày đêm.
- Công bố dự thảo Luật loại bỏ xe gắn máy.
Giai đoạn II: (Cấm xe máy) 2002-2006:
Trọng điểm: Cấm xe máy và các chính sách đền bù, hỗ trợ. Các việc chính:
- Luật loại bỏ xe gắn máy có hiệu lực: Cảnh sát kiểm tra xe nào đã qua đăng ký từ 15 năm trở lên sẽ bị thu gom vào bãi phế liệu, chờ tiêu hủy. Những xe còn lại được sử dụng đến hết năm 2006. Khi giao nộp xe nếu chưa đến 13 năm sử dụng thì được hỗ trợ đền bù mỗi xe 180 USD.
- Kêu gọi người dân đi các loại phương tiện vận chuyển công cộng với giá rẻ khuyến khích, đồng thời phát triển thêm các loại xe sạch môi trường như xe chạy điện mini, các xe buýt nhỏ chạy đường ngắn và xe đạp. Tại Hàng châu, Thượng Hải có rất nhiều điểm cho thuê xe đạp tự động, không có người trông giữ. Ai muốn thuê xe thì mua thẻ từ, đến điểm thue xe, chọn xe ưng ý thì quẹt thẻ vào chìa khóa sẽ tự động bung ra, người thuê lấy xe đi đến hết giờ mang trả lại chỗ cũ, rất đơn giản và tiện dụng.
- Kịp thời có các cơ chế, chính sách cần thiết để ổn định xã hội, như: Hội thảo chuyển đổi sản xuất đối với các doanh nghiệp chế tạo xe máy, các cửa hàng kinh doanh và hệ thống cơ sở dịch vụ bảo trì, sửa chữa; Mở những lớp dạy nghề và hội chợ lao động giúp những người lái xe ôm tìm việc làm…
- Ngoài ra cũng cần lưu ý kiểm soát thị trường để đề phòng ngành kinh doanh xe đạp và các hãng taxi lợi dụng tình thế cấm xe máy để “tranh thủ” nâng giá bất hợp lý.
Những việc làm trên đây là bước đệm quan trọng để Chính quyền thành phố Quảng Châu chính thức áp dụng lệnh cấm hoàn toàn xe gắn máy lưu thông trên toàn địa bàn, kể từ ngày 1/1/2007, chấm dứt vấn nạn xe máy gây ùn tắc giao thông nhiều năm qua, đem lại văn minh cho đô thị. Năm 2008, TP. Quảng Châu được Bộ Môi trường Trung Quốc trao tặng danh hiệu “Thành phố gương mẫu về bảo vệ môi trường” và vinh dự được chọn làm địa điểm đăng cai tổ chức Á Vận Hội lần thứ 16.
Một vấn đề khác được quan tâm là sau khi cấm xe máy thì ôtô cá nhân sẽ gia tăng, điều này cũng không đáng lo vì nằm trong tay điều tiết của Nhà nước. Đã có kinh nghiệm của Singapore: Trước năm 1009 nước này cũng đánh thuế mua ôtô cao tương tự như Việt Nam, tuy nhiên không đem lại hiệu quả vì người dân khá giả nên vẫn hào hứng mua nhiều xe hàng năm. Từ tháng 5/1990, Chính phủ áp dụng chính sách cấp quota, hay gọi là Giấy chứng nhận quyền được mua ôtô (viết tắt là COE). Nguyên tắc của thể chế này là: Ai muốn mua xe sở hữu bắt buộc phải có Giấy chứng nhận COE. Số lượng COE phát hành hàng năm được tính toán dựa trên sự cân đối giữa số xe tăng lên ngang với số xe đào thải, khoảng 1,5%. Giấy chứng nhận COE được thông báo công khai và sẽ đưa ra bán đấu giá 2 thàng 1 lần, chỉ người trả giá cao mới được cấp. Giấy này cấp có thời hạn, nếu hết hạn sẽ không còn giá trị mua xe. Thủ tục mua xe đã khó, giá lại cao gấp 1,5 đến 2 lần giá mua ở Việt Nam, gấp 3 đến 4 lần so với Mỹ, ngoài ra còn phải trả nhiều khoản phí khác rất tốn kém, trong khi đó Quốc đảo này có hệ thống vận chuyển công cộng thuận lợi vào bậc nhất thế giới nên người dân đã vui vẻ chuyển sang sử dụng loại phương tiện này./.