Các thuốc trợ tim
Trong cơ thể, tim được coi như một cái bơm, nhận máu từ hệ thống tĩnh mạch và đẩy máu đi qua các động mạch. Chức năng huyết động học đó được thể hiện bằng cung lượng tim (lít/phút) hay chỉ số tim (lít/phút/m 2). Các thông số này phụ thuộc vào sức co bóp cơ tim và tần số tim. Suy tim là trạng thái bệnh lý, trong đó chức năng co bóp của cơ tim bị rốn loạn làm cho tim mất khả năng cung cấp máu theo nhu cầu của cơ thể. Ban đầu tình trạng này xảy ra khi người bệnh phải làm một việc gì đó gắng sức, nhưng sau đó xảy ra ngay cả khi nghỉ ngơi. Tổn thương về chức năng co bóp của tim có thể là nguyên phát do thương tổn của chính các sợi cơ tim trong bệnh thiếu máu cơ tim, cơ tim bị dãn hoặc do bệnh hở van 2 lá, hở van động mạch chủ, hẹp van động mạch chủ, bệnh tăng huyết áp (cao), bệnh viêm màng ngoài tim co thắt,… Vì vậy, người ta phải dùng các thuốc trợ tim để tăng sức co bóp của cơ tim.
Các thuốc trợ tim hay còn gọi là thuốc tim (cardiac drugs) hoặc các thuốc điều trị suy tim, trong đó có các thuốc cổ điển là các glycosid cường tìm và một số nhóm thuốc mới như các chất kích thích thụ thể bêta, các chất ức chế men phosphodisteraza. Hiện nay, nhóm thuốc điều trị các bệnh về tim mạch có nhiều phân nhóm dựa theo tác dụng điều trị của chúng như thuốc chống loạn nhịp, thuốc chống đau thắt ngực, thuốc điều trị tăng huyết áp, các thuốc hạ cholesterol và lipid máu,… Sau đây chỉ nói về các thuốc trợ tìm dùng để điều trị suy tim.
* Nhóm glycosid cường tim(hay còn gọi là glycosid trợ tim) là các thuốc có cấu trúc steroid có tác dụng chọn lọc lên tim người bệnh dùng để điều trị suy tim. Trong tự nhiên, các chất này có trong một số thực vật như các loài: Dương địa hoàng (digitalis), hạt cây sừng dê (strophantus), hành biển (scille), cây trúc đào (nerium oleander). Cách đây hàng nghìn năm người Ai Cập đã biết dùng các thuốc glycosid cường tim từ các dược liệu kể trên. Một trong những thuốc kinh điển là ouabain được chiết từ vỏ hoặc rễ của cây Ouabaio. Ngày nay người ta hay dùng digitoxin hoặc digoxin và các dẫn chất bán tổng hợp của chúng để điều trị suy tim sung huyết kèm rung nhĩ. Thuốc có cả dạng viên uống và dạng tiêm, có thể phối hợp với các thuốc lợi tiểu để tăng hiệu quả điều trị. Đây là các thuốc có khoảng điều trị hẹp nên cần cân nhắc về liều dùng đề phòng tai biến nguy hiểm. Trong quy chế thuốc độc, đây là các thuốc thuộc bảng A cần phải hết sức thận trọng.
* Nhóm thuốc giống giao cảm: bao gồm dopamin là một tiền chất của nor-adrenalin có tác dụng kích thích các thụ thể dopaminergic làm dãn mạch, tăng lợi niệu, làm tăng sức co bóp của cơ tim. Dopamin được chuyển hoá và đào thải rất nhanh nên chỉ dùng qua đường truyền nhỏ giọt tĩnh mạch. Trong suy tim chỉ dùng liều thấp hoặc trung bình. Một thuốc khác nữa có tên gọi dobutamin là một amin kiểu giao cảm được tổng hợp từ 1975. Thuốc này thường dùng dạng tiêm, đơn độc hoặc phối hợp trong điều trị giảm cung lượng tim, suy tuần hoàn do tim. Ngoài ra, còn có các thuốc như là peralterol hoặc pirbuterol kích thích các thụ thể bêta. Hai loại này có tác dụng trong suy tim cấp tính nhưng khi dùng lâu dài thì tác dụng không rõ ràng.
* Nhóm thuốc ức chế men phosphodiesterazacó nhiều tác dụng phụ nên việc sử dụng cần hạn chế và cân nhắc khi chọn thuốc. Một số dẫn chất của bipyridin như amrinon, milrinon hoặc dẫn chất của imidazolon như enoximon được nghiên cứu đưa vào điều trị song chưa phổ biến.
Trên thị trường có thuốc amiodaron được dùng để điều trị nhịp xoang nhanh, loạn nhịp tim. Không nên phối hợp với các thuốc trị loạn nhịp tim khác để đề phòng tai biến.
Các thuốc tim mạch nói chung và nhóm thuốc trợ tim nói riêng đều là những thuốc cần phải hết sức thận trọng khi sử dụng, tuân thủ chặt chẽ về liều lượng vì đây là những thuốc mà khi liều lượng thay đổi sẽ có tác dụng hoặc là ngược lại, hoặc dễ gây nguy hiểm cho người sử dụng. Không nên tự ý dùng thuốc mà phải do bác sĩ khám bệnh, kê đơn và hướng dẫn sử dụng.