Các chính sách bảo đảm sự thành công CCGD đại học
Trong 23 năm đổi mới, giáo dục đại học Việt Nam đã có được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên nền GDĐH nước ta chưa thoát khỏi ảnh hưởng của GD nho giáo (khoa bảng, bằng cấp), của GD “hàn lâm, tháp ngà”. Đặc biệt, chưa thực sự là GD của dân, do dân và vì dân, chưa thật có quan hệ hữu cơ với quá trình phát triển kinh tế, thị trường lao động và nhu cầu xã hội.
Nền GDĐH Việt Nam thua kém nhiều so với một số nước trong khu vực và trên thế giới. Sự phát triển kinh tế xã hội trên con đường hội nhập, đòi hỏi GDĐH dứt khoát phải đổi mới toàn diện và triệt để, phải thực sự được cải cách.
Sáu thách thức lớn
Có thể thấy, GDĐH nước ta đang đối mặt với 6 thách thức lớn:
1- GDĐH phải đi trước một bước trước tình hình phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam trong bối cảnh khu vực và thế giới.
2- Quy mô GDĐH phải tiếp tục tăng nhanh, nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng. Bảo đảm chất lượng là lý do sống còn của GDĐH.
3- Xã hội hoá GDĐH, đảm bảo tính công khai, công bằng, bình đẳng và dân chủ.
4- Trường ĐH phải thực sự là trung tâm nghiên cứu khoa học, gắn với sản xuất, các doanh nghiệp, tạo nguồn nhân lực trình độ cao đích thực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
5- Đổi mới quản lý GDĐH, tạo điều kiện và có chính sách phù hợp để các trường thực sự có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm.
6- Chủ động hội nhập với GDĐH trong khu vực và thế giới trong xu thế toàn cầu hoá.
Mặt khác, trong quá trình tiến hành cải cách GDĐH nhất thiết cần coi trọng các nhân tố tác động, đảm bảo cho công cuộc cải cách thành công. Những nhân tố đó là:
a) Cải cách GDĐH không thể tách rời cải cách tất cả các bậc học khác trong hệ thống GD quốc dân.
b) Cải cách GDĐH không tách rời thể chế, chế độ chính trị của nước ta với mô hình kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung cơ bản của cải cách GDĐH phải bao gồm cải cách và đổi mới: - Cơ cấu trình độ.- Cơ cấu loại hình.- Cơ cấu ngành nghề.- Cơ cấu vùng, miền.- Cơ cấu xã hội.- Cơ cấu đầu tư.- Cơ cấu thể chế và quản lý. - Cơ cấu quy mô. - Cơ cấu chất lượng.
Trong giai đoạn hiện nay GDĐH có sứ mệnh vô cùng quan trọng. Đó là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao có chất lượng, đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế- xã hội cho từng địa phương và cả nước. Đồng thời coi trọng đào tạo nguồn nhân lực hướng tới xuất khẩu lao động trình độ cao và xuất khẩu chất xám thông qua con đường chuyển giao công nghệ.
GDĐH chính là hạt nhân cơ bản để xây dựng nền kinh tế tri thức ở nước ta.
Các chính sách bảo đảm sự thành công của cải cách
Để đảm bảo thành công cho công cuộc cải cách, nhất thiết nhà nước cần nghiên cứu để có một số chính sách GDĐH. Đó là:
Chính sách đảm bảo chất lượng GDĐH, trong đó lưu ý quan tâm nhiều tới thanh tra GDĐH, đánh giá khách quan chất lượng GDĐH và kiểm định chất lượng GDĐH.
Chính sách gắn đào tạo ĐH với nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ, với thực tiễn sản xuất và thị trường lao động. Tăng cường năng lực nghiên cứu triển khai cho các trường đại học, đặc biệt ưu đãi hỗ trợ cho các hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ.
Chính sách khuyến khích cho mở doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất thử, tiến tới tạo điều kiện tốt nhất có thể có được cho các trường ĐH để có thể có các khu công nghiệp, thậm chí các công viên công nghệ cao.
Chính sách đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm thực sự và đồng bộ cho các trường ĐH.
Chính sách đối với giảng viên và sinh viên ĐH, đặc biệt có chế độ ưu tiên, ưu đãi đối với những nhà giáo tài năng và sinh viên xuất sắc. Tạo điều kiện để thày, trò có thể phát huy được hết tài năng, năng lực sáng tạo và trí tuệ của mình cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội.
Chính sách đầu tư cho GDĐH; thực sự coi đầu tư cho GDĐH là đầu tư cho phát triển; tạo điều kiện thuận lợi cho các trường ĐH có thể thu hút được nhiều nguồn đầu tư từ những thành phần kinh tế và các tổ chức khác nhau trong nước cũng như ngoài nước trên cơ sở pháp luật. v.v...
Các giải pháp và bước đi
![]() |
| Phòng thí nghiệm Trung tâm Khoa học Vật liệu trường ĐHKHTN. |
Công cuộc cải cách GDĐH tiến hành thành công nhiều ít, thậm chí có thể thất bại, một phần không nhỏ chính là phụ thuộc vào việc có tìm ra được những giải pháp đúng đắn, thích hợp, hữu hiệu và bước đi có hợp lý hay không.
Từ thực tiễn hoạt động cơ sở, nghiền ngẫm và tích lũy kinh nghiệm GDĐH của nhiều nước, người viết bài này xin đề xuất một vài giải pháp có thể coi là rất cơ bản cho cải cách GDĐH:
Đổi mới tư duy GDĐH. Đây phải được coi là giải pháp đầu tiên và rất cơ bản để đảm bảo sự thông suốt trong toàn bộ quá trình thực hiên cải cách GDĐH. Không có tư duy mới về GDĐH không thể thực hiện được cải cách GDĐH.
Cải cách thể chế GDĐH. Thể chế hiện nay trong GDĐH đang là vật cản lớn, gây nhiều trở ngại, làm cho GDĐH nước ta chậm phát triển: Động lực thiếu, sức sống của nhà trường yếu và hiệu quả thấp. Do vậy cần đổi mới thể chế GDĐH theo hướng xác định tư cách tự chủ của trường ĐH trong việc giảng dạy, NCKH và học tập, tức sử dụng quyền tự chủ về tài chính, tổ chức, nhân sự, hành chính sự nghiệp...theo pháp luật.
Trường ĐH chịu sự đánh giá và chỉ đạo với chức năng quản lý nhà nước của cấp trên. Xác định cơ chế điều tiết thị trường của GDĐH với xã hội, với thị trường lao động. Xác lập thể chế điều tiết xã hội với nội dung có sự tham gia của xã hội; trường ĐH chịu sự giám sát của xã hội.
Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học. Thông qua giải pháp này để GDĐH một mặt bảo tồn và phát triển được tinh hoa của nền văn hoá-giáo dục dân tộc, đồng thời sớm có điều kiện tiếp cận với nền GDĐH tiên tiến, hiện đại của khu vực và thế giới.
Từng trường ĐH ở nước ta phải tự thiết lập “thương hiệu” riêng cho trường mình chẳng những có giá trị ở trong nước mà còn có giá trị cao trong khu vực và quốc tế. Giải pháp này sớm tạo cơ hội cho các trường ĐH chủ động trong xu thế quốc tế hoá thị trường nhân lực. GDĐH là phương tiện quan trọng để cạnh tranh kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới.
Gắn đào tạo với NCKH, với sản xuất và thị trường lao động. Từng bước xây dựng mối quan hệ đào tạo- nghiên cứu khoa học- sản xuất trong mối tương quan với thị trường lao động.
Đầu tư cho GDĐH bằng nhiều nguồn lực. Trong đó cần xác định nguồn lực nhà nước vẫn là nguồn lực quan trọng, ngoài ra phải tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho GDĐH khơi dậy và tiếp nhận nguồn đầu tư đa dạng từ khu vực ngoài nhà nước và nguồn lực thông qua hoạt động hợp tác quốc tế.
Trên cơ sở các giải pháp, ngành GD và ĐT định ra các bước đi ngắn, trước mắt trong những năm hiện nay sao cho thích hợp, vừa sức về cả đổi mới tư duy, cả về nguồn lực và nhất là về năng lực tổ chức quản lý thực hiện. Đồng thời cũng định ra được những bước đi dài trên cơ sở dự báo với các dữ liệu trung thực, tin cậy và khoa học để đảm bảo sự thành công chắc chắn cho công cuộc cải cách GDĐH.









