Ca dao Lý Sơn: Nhớ đất liền, nhớ xa khơi
Trong hành trang của họ, có hình ảnh cố hương, đó là những làng quê men theo bờ biển Sa Kỳ, có bãi cát vàng nối rặng dương xanh, mõm ba làng an khuất xa dần theo khói sóng…
Ai là người Lý Sơn đầu tiên cất lên câu hát nhớ quê? Hát cho riêng mình và gửi thanh âm theo tiếng sóng, hay hát giữa đêm trăng ngồi bên nhau trên đất đảo mà kể chuyện đất liền? Chỉ biết rằng, đã có hàng vạn những câu ca thương nhớ, thiết tha tình nghĩa, khắc khoải nỗi niềm đã được người Lý Sơn hát lên, truyền nhau, từ đời này sang đời khác:
Trời mưa trong Quảng mưa ra
Mưa qua hòn Bé, hai ta lạnh lùng…
Cơn mưa ướt áo ấy chắc gì đã đến từ đất liền, chắc gì đã vòng qua hòn Bé. Nhưng trong nỗi nhớ, mưa ấy là ở chốn quên nhà, chốn nhớ thương. Mưa ấy chập chờn sang hòn Bé, chập chờn trên sóng biển, để càng nhớ hơn, càng xót xa hơn. “Hai ta lạnh lùng” vì kẻ ở đất liền, người đang ngoài đảo, hay cả hai ta đang từ phía đảo nhìn về quê cũ mờ xa?...
Đã có biết bao thế hệ người Lý Sơn sinh ra và lớn lên trên đất đảo, kể từ ngày “thất hiền, lục tổ” nắm lấy bàn tay nhau, chung một lời thề mở nghiệp cho cháu con, đem mồ hôi biến nơi đây thành quê mới. Nỗi nhớ đất liền ngỡ như đã khuất vào dĩ vãng lại thấp thoáng hiện về trong ký ức:
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Ngó về trong Quảng mà mong mẹ về.
Ô hay, sông nào? Lý Sơn là một hòn đảo nhỏ, diện tích không quá 10 cây số vuông, mạch nước lộ thiên cuối cùng là con Suối Chình đã khô cạn từ lâu, bờ sông biết ở nơi nào? Nhưng câu hỏi chỉ là của người đất liền chưa hiểu nhiều về xứ đảo. Ở đây, biển được gọi là sông. Con sông - bể cả mịt mù ngọn sóng, típ tắp bờ xa; con sông - cố hương chìm lắng trong thẳm sâu tiềm thức, thấp thoáng cửa Đại, Sa Kỳ.
Ngày mưa, chỉ thấy những cơn mưa. Còn những lúc trời trong, từ đảo có thể thấy được đất liền, thấy hòn Nam Châm sừng sững, thấy núi Thình Thình, thấy mũi đất Tổng Binh, muốn về thăm cho nguôi nỗi nhớ:
Trời trong ngó thấy Tổng Binh
Muốn về thăm bạn, giận mình chẳng ghe…
Nhớ đất liền như thế. Lại còn có một - phương - nỗi - nhớ, vọng theo hút mắt khơi xa. Đó là nỗi nhớ những người lênh đênh trên biển, những người đi về phía mặt trời, đi về phía Hoàng Sa…
Số là, từ cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, các chúa Nguyễn đã cho thành lập Đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải (Trường Sa), tuyển trai tráng ở hai xã An Vĩnh, An Hải trong đất liền và hai phường An Vĩnh, An Hải ngoài đảo để sung vào đó mà đi tuần sát, khai thác quần đảo Hoàng Sa. Ra đi từ Sa Kỳ, đoàn thuyền đến Hoàng Sa thu nhặt hóa vật, hải sản, dựng bia chủ quyền, đo đạc hải trình, rồi tiếp tục vòng theo phía Bắc, cập cửa Eo để vào dinh Phú Xuân. Cuộc hành trình kéo dài từ tháng 2 đến tháng 8 Âm lịch hàng năm với bao nhiêu trắc trở, gian nan, cập kề cái chết. Bởi thế mà trước khi đi Hoàng Sa, mỗi người lính phải chuẩn bị sẵn cho riêng mình một đôi chiếu, 7 sợi dây mây và 7 chiếc đòn tre. Nếu gặp chuyện chẳng lành, những người còn lại trên thuyền sẽ đem xác thân người xấu số quấn vào chiếc chiếu, nẹp chặt vào 7 đòn tre, lấy dây mây buộc lại. Thi thể người lính âm thầm hy sinh vì tổ quốc sẽ được thả xuống biển khơi với hy vọng mong manh là “chiếc quan tài chiếu” ấy sẽ trôi dạt vào phía gần bờ để có chiếc thuyền nào đó bắt gặp, vớt lên đem chôn cất. Chiếc thẻ tre nhỏ khắc tên họ, quê quán, phân hiệu đơn vị của người mất, được cài kỹ trong bó di hài sẽ là dấu hiệu cần thiết để người trên bờ nhận dạng. Nhưng đó cũng chỉ là chút niềm tin mong manh như bọt bể, để vững tâm người ra đi, yên lòng người ở lại.
Gian nan, nguy hiểm là thế, nhưng người lính Hoàng Sa nào có nề hà:
Hoàng Sa đi có về không,
Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi…
Họ ra đi vì lệnh vua, vì Tổ quốc, để lại đằng sau là sự chờ đợi, thương nhớ của người thân:
Chiều chiều ra ngóng biển khơi;
Ngóng ai như ngóng đợi người Hoàng Sa
Chiều chiều ra ngóng biển xa
Ngóng ai đi lính Hoàng Sa chưa về…
Câu hát xót xa buồn khiến ta càng thấm thía hơn những hy sinh, chịu đựng của bao thế hệ cha ông trong cuộc hành trình gian nan giữ nước…








