Bỏng mắt – Cách phòng tránh và điều trị
Trong những trường hợp bỏng nặng do nồng độ hóa chất cao, đậm đặc, đặc tính hóa lý của chất gây bỏng có thể dẫn đến những tổn thương và biến chứng nguy hiểm, không những đe dọa chức năng của mắt mà còn có nguy cơ phải bỏ nhãn cầu. Ngày nay, quan niệm bỏng mắt không phải chỉ là hiện tượng tại chỗ ở mắt, mà còn một “bệnh bỏng”, một trạng thái bỏng toàn thân, trong đó có sự biến đổi về sinh hóa ở các tổ chức và nội tạng như rối loạn cơ cấu chất albumin trong máu, rối loạn lượng glycogen, rối loạn lượng azot dự trữ và các chỉ số khác như prothrombin, một số men chuyển hóa, rối loạn tăng băng axit-bazơ, rối loạn các men chuyển hóa ở trong các cơ, trong gan, trong tế bào não và tim. Sau khi mắt bị bỏng, trong cơ thể xuất hiện tình trạng nhạy cảm của cơ thể và khả năng phản ứng toàn thân và tại chỗ cũng thay đổi theo. Bỏng có thể gây những biến đổi ở mắt như: Giảm lượng glycogen, mucoplysacarit, sunfidril, thay đổi tỷ suất albumin globumin, vitamin, đặc biệt là vitamin B2 và vitamin C ở giác mạc và các màng bọc của nhãn cầu.
Trong các loại bỏng, bỏng hóa chất thuộc loại nặng nhất do tính chất tiêu tổ chức và thấm sâu vào tổ chức. Tác nhân hay gặp là chất axit và chất bazơ (sút, vôi, amoniac). Tổn thương mắt nặng hay nhẹ phụ thuộc vào thời gian hóa chất ở trong mắt, nồng độ hóa chất, tính chất lý hóa học của hóa chất làm thay đổi độ pH của mắt, phá hủy các chất protein. Bỏng nhẹ:Mắt bị kích thích, kết mạc cương tụ, giác mạc phù biểu mô, thị lực giảm ít . Bỏng nặng: Mắt đau nhức nhiều, kết mạc bị phù, tắc mạch, có chỗ hoại tử trắng không còn mạch máu. Giác mạc đục trắng, phần sau không trông thấy. Biểu mô bong ra, mô nhục bị đục và phù, loét giác mạc dai dẳng dẫn đến thủng mắt, thị lực giảm mạnh, có thể chỉ còn phân biệt được ánh sáng.
Điều trị
Điều trị bỏng mắt phải xử trí thật khẩn trương, đúng đắn thì mới có thể bảo tồn được chức năng sinh lý của mắt. Tiên lượng mắt bị bỏng phụ thuộc rất nhiều vào cách xử trí cấp cứu ban đầu.
Loại bỏ chất gây bỏng: Gây tê và lấy hết dị vật còn trong mắt. Nếu bỏng do vôi cục chưa tôi phải dùng panh gắp hết vôi cục ra (không nên rửa mắt ngay từ đầu). Rửa mắt bằng nước muối 9%0 hoặc nước đường nếu bỏng do vôi. Trước khi rửa mắt cần phải kiểm tra độ pH trong mắt, rửa xong phải kiểm tra đo lại độ pH. Nếu bỏng do bazơ cần phải rửa lâu hơn 30 phút cho tới khi pH trở về cân bằng (pH=7). Theo các chuyên gia nhãn khoa, không nên rửa mắt bằng dung dịch đối kháng.
Điều trị nội khoa: Dùng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ. Phòng chống dính bằng cách: day cùng đồ với mỡ kháng sinh bằng que thủy tinh đầu tròn ngày 1-2 lần. Có thể đặt khuôn bằng nhựa hoặc chất dẻo để chống dính có lỗ ở giữa (bỏng sau 2-3 ngày) nhưng phải thận trọng do khuôn có thể cọ sát vào giác mạc gây loét.
Điều trị ngoại khoa: Có một số phẫu thuật được làm trong giai đoạn đầu của bỏng mắt.
- Chọc tiền phòng: Hay được chỉ định trong bỏng bazơ nhằm thay thế thủy dịch có hóa chất bằng thủy dịch thứ sinh có nhiều kháng thể hơn.
- Phẫu thuật Doenig: Khi kết mạc bị hoại tử nặng, cắt bỏ kết mạc hoại tử sát rìa giác mạc, vá niêm mạc môi ủng hoặc màng rau thai.
- Phẫu thuật Passow Poliak: Có thể áp dụng rộng rãi hơn nhằm loại trừ các chất độc và độc tố do tổ chức hoại tử tiết ra còn đọng dưới kết mạc.
- Ghép giác mạc: Là biện pháp ngày càng được chỉ định rộng rãi trong điều trị bỏng như ghép giác mạc xuyên, ghép giác mạc nông.
- Phẫu thuật tách dính mi cầu, phẫu thuật da tạo hình mi, phẫu thuật phủ Tenon, hạ nhãn áp, phẫu thuật Sapejko, phẫu thuật khâu cò mi.
Mỗi chúng ta nên tự biết cách sơ cứu khi bị bỏng mắt trước khi đến cơ sở y tế. Trong các nhà máy, xí nghiệp, các phòng thí nghiệm sử dụng hóa chất, cần phải đeo kính bảo vệ mắt hoặc mang mặt nạ dày, khi làm việc ở các lò đúc kim loại nóng chảy, có phương tiện cấp cứu đầy đủ để rửa mắt. Đồng thời cần nhắc nhở trẻ em không ném vôi vào nhau khi chơi đùa.
Nguồn: Khoa học và Đời sống , số 70 (1788)