Biểu tượng trong đám cưới của người Thái ở Việt Nam
![]() Đặc biệt là một số lễ vật bắt buộc đã trở thành phong tục truyền thống của đám cưới Thái là CÁ CHUA “ Pa nôm” và CÁ SẤY “ Pa dạng”. Đây là thứ lễ vật nhà trai phải chuẩn bị trước cả tháng. Nhà trai có thể thiếu lễ vật này, lễ vật khác nhưng không thể thiếu hai loại cá này. Số lượng lễ vật được chuẩn bị sẽ lệ thuộc vào số anh em, họ hàng và cô dì, chú bác gần gũi của nhà gái.
![]() Cá ướp chua có thể là các loại cá nhỏ hơn hoặc to hơn, đem mổ bỏ ruột, ướp muối và thính gạo hay ngô cho chua rồi nhồi vào từng ống tre tươi, gọi là “bọng”. Người Thái gọi hai thứ đồ đựng đó gộp lại thành tên “ bọng hắp” (gồm ống cá chua và giỏ cá khô). Tên gọi thứ lễ vật này có thể coi là biểu tượng độc đáo trong đám cưới của người Thái (xưa kia người Thái ở Thái Lan cũng có tục lệ này). Theo tục lệ, những bà con được tặng “ bọng hắp” của nhà trai cũng phải đáp lễ bằng cách tặng lại cô dâu đôi gối đầu “ mon”, vải vóc, nhất là những tấm thổ cẩm được trang trí văn hoa như mặt chăn “ nả phà”, mặt địu “ nả đa” hay ghế đệm “ tẳng sửa”, bát đĩa… Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao lễ vật bắt buộc của nhà trai mang sang nhà gái trong ngày cưới lại là cá khô và cá chua? Xét cho cùng, đây là hai loại thức ăn để dành phòng khi không kiếm được, nhưng lại trở thành lễ vật quan trọng trong đám cưới. Như chúng ta đã biết, đám cưới của bất cứ dân tộc nào cũng là nơi hội tụ hay là “bảo tàng sống” những phong tục đó đều bắt nguồn tự những sinh hoạt của đời sống hàng ngày. Nói khác đi, phong tục chính là sự đúc rút một cách chắt lọc những hoạt động của đời sống thường nhật của tộc người. Trong đó, một số phong tục đã dần trở thành biểu tượng hay đặc trưng tiêu biểu đó. Xưa kia, người Thái ở Việt Nam sinh sống chủ yếu trong các cánh đồng lớn của Tây Bắc “nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc”-loại hình kinh tế chủ đạo của người Thái chính là canh tác ruộng nước. Tất cả các xứ đồng trong các cánh đồng đó đều được tưới tiêu bằng nguồn nước tự nhiên. Đó là các con suối lớn nhỏ bắt nguồn từ các khu rừng xung quanh chảy qua các cánh đồng. Nhiều nơi chỉ cần một vài hòn đá chặn ngang suối là dòng nước đã có thể chảy vào ruộng một cách dễ dàng. Nơi nào mặt ruộng cao hơn người ta có thể đắp phai(đập ngăn nước) để nước chảy vào các con mương lớn dẫn nước tưới cho các cánh đồng. Với nguồn nước tưới ruộng một cách tự nhiên như thế, phần lớn các khu ruộng Thái đều có các loại cá theo dòng nước vào sinh sống. Vì thế, mỗi khi đi bừa người ta cũng thường bắt được cá một cách dễ dàng. Hơn nữa, tất cả các bản Thái truyền thống đều được xây dựng bên cạnh các con suối hay khu vực nước nào đó. Đây là tiêu chuẩn hàng đầu mỗi khi chọn đất lập một bản Thái. Vì thế, các con suối này không chỉ là nguồn nước tưới ruộng và phục vụ sinh hoạt hàng ngày mà chúng còn là các “ao cá” tự nhiên của các bản Thái. Trước khi giải phóng Tây Bắc (1954) nhiều con suối ở đây (ví dụ con suối Tấc, Phú yên – Sơn La) có rất nhiều cá, cá suối ăn không hết còn để dành làm “cá cảnh”, ngắm cho vui mắt. Người mường ở đây còn lưu mãi câu thành ngữ “cơm mương Va, cá đák Tớc”(cơm mường Hoa, tên gọi trước kia của Mường Tấc, cá suối Tấc). Với sự ưu đãi của thiên nhiên như thế, nguồn thức ăn chính của người Thái là cá. Tục ngữ Thái có câu “pay kin pa, má kin lảu, tảu nón sứa hổm pha”(đi ăn cá, về uống rượu, đến ngủ đệm đắp chăn). Cá đã trở thành khẩu phần ăn hàng ngày và quen thuộc của người Thái: “Khạu nông pha, pa đúc pịnh”(xôi nếp ruộng, cà trê nướng). Và khẩu phần ăn truyến thống đó trở thành đặc sản khá phổ biến ở tất cả các nhóm Thái Đông Nam Á. Trong đời sống Thái, cá không chỉ là món ăn quen thuộc mà còn được sử dụng làm lễ vật cúng tế hay thức ăn chính trong các dịp sinh hoạt cộng đồng, nhất là dịp xên bản(cúng thần bản) và lễ ăn cơm mới kin khau hạch. Đây là các bữa ăn tập thể của cộng đồng bản mang ý nghĩa cộng cảm, cộng mệnh. Trong các lễ làm vía hệt khoănkhi có người đau ốm hay khi có khách quý đến thêm bản mường… món cá đồ pa nựngcòn gọi là “pa mọc”) là một trong ba thức ăn quan trọng không thể thiếu bên cạnh thịt gà và thịt lợn. Điều đặc biệt ở đây là trong lễ này có thể thiếu thịt gà (con vật có cánh, đại diện cho thế giới biết bay), thịt lợn (con vật 4 chân, đại diện cho loài vật sống trên mặt đất), nhưng không thể thiếu món cá 9 loài vật sống dưới nước. Đối vời thế giới tâm linh Thái, con vật dưới nước như các loài cá chính là thần nước mà vua của các loài cá chính là con thuồng luồng “tô ngược”. Nước có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống Thái. Có thể nói, văn hoá Thái chính là văn hoá sông nước. Bởi lẽ, có nước mới thành ruộng “mí mặm chăng pên ná”và có ruộng mới thành bản “mí ná chăng pên bản”. Bản chính là đơn vị xã hội cơ sở, đồng thời cũng là nơi hội tụ của tất cả các hoạt động trong đời sống Thái. Như vậy, cá - biểu tượng của thế giới nước, và nước là môi sinh quan trọng hàng đầu của đời sống Thái. Cho nên, cá chính là nguồn sống, là biểu tượng ấm no, hạnh phúc của người Thái. Trong hôn nhân Thái, nếu cá là lễ vật bắt buộc của nhà trai thì chăn đệm lại là những đồ vật không thể thiếu của nhà gái. Theo phong tục Thái, khi đi lấy chồng, các cô gái Thái phải mang theo về nhà chồng một số chăn đệm, gối, khăn đội đầu “piêu” tuỳ khả năng của mình. Tuy nhiên, tối thiểu mỗi cô dâu cũng phải mang về nhà chồng 4 đôi chăn đệm cùng một số gối nhất định. Riêng người Thái ở Yên Châu (Sơn La) có thể mang về nhà chồng tới 30 đôi chăn đệm cùng nhiều loại khăn “piêu” (loại khăn thêu hoa văn ở hai đầu). Với số chăn đệm như thế, cô dâu thường tặng cho bố mẹ chồng một đôi, ông bà chồng (nếu còn sống) một đôi cùng ghế đệm, khăn piêu. Tục ngữ Thái có câu: “piêu cút xam nhương me pạ, piêu cút hạ nhương me da”(khăn 3 cút tặng bác bá, piêu 5 cút dành tặng mẹ chồng). Với tục lệ này, các cô gái Thái phải chuẩn bị dệt vải, làm chăn đệm từ tuổi thiếu nữ - Qua đó không chỉ giúp các cô gái Thái thành thạo việc canh cửi mà còn tạo ra một giải pháp hiệu quả để bảo toàn văn hoá truyền thống của tộc người. Như vậy, trên cơ sở kinh tế lúa nước, người Thái dễ tạo nên nền văn hóa độc đáo riêng của mình. Nhiều sinh hoạt trong nền văn hoá đó dã trở thành biểu tượng tiêu biểu cho đời sống Thái-Trong đó, tiêu biểu nhất là các biểu tượng mà tục ngữ Thái đã tổng kết: “pay kin ma, ma khin lạu, tạu nón sứa hôm pha”(đi ăn cá, về uống rượu, đến ngủ đệm đắp chăn). Đây là biểu tượng của cư dân đã định canh định cư bền vững trong nền văn minh lúa nước. Nguồn: Xưa và Nay, số 251&252, tháng 1-2006.
|