Biến đổi khí hậu và một số giải pháp ứng phó, giảm thiểu
Theo tính toán, dự báo xu thế BĐKH ở Việt Nam những năm tới như sau: Nhiệt độ trung bình có thể tăng lên 3 0C vào năm 2100; lượng mưa có xu thế biến đổi không đồng đều giữa các vùng, có thể tăng (từ 0%-10%) vào mùa mưa và giảm (từ 0%-5%) vào mùa khô, tính biến động của mùa tăng lên; mực nước biển trung bình trên dải bờ biển có thể dâng lên 1m vào năm 2100.
Việt nam là nước đang phát triển, phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính ở mức độ còn thấp, nhưng lại phải hứng chịu nhiều tác động của BĐKH. Để ứng phó, Chính phủ Việt Nam đã và đang tiến hành nhiều hoạt động như xây dựng thể chế, xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia, giao nhiệm vụ điều phối các hoạt động ứng phó với BĐKH cho các bộ, ngành, đồng thời mở rộng nhiều kênh thông tin về BĐKH trong cộng đồng và phối hợp, hợp tác với các tổ chức quốc tế, nhà tài trợ trên nhiều lĩnh vực về BĐKH. Nhà nước và nhiều địaphương đã phối hợp với các nhà tài trợ tạo lập được cơ chế khuyến khích sử dụng và phát triển năng lượng tái tạo như: Năng lượng khí sinh học (biogas, phế thải trong nông nghiệp ở nông thôn); năng lượng mặt trời (thiết bị đun nước nóng, chiếu sáng bằng pin mặt trời), khí gá (bãi rác đô thị); năng lượng gió (phát điện, bơm nước cho ruộng muối ở vùng ven biển, hải đảo); thủy điện, đặc biệt thủy điện nhỏ và cực nhỏ công suất lắp đặt lên tới hàng nghìn MW (phát điện ở vùng sâu, vùng xa hoặc phối hợp điều tiết, cấp nước, tưới tiêu). Đặc biệt, một dự án thí điểm xây dựng chi trả hấp thụ cacbon trong lâm nghiệp đã được triển khai ở huyện Cao Phong tỉnh Hòa Bình, nhằm chuẩn bị cho việc tham gia thị trường cacbon của Việt Nam.
Để ứng phó với BĐKH Chính phủ Việt nam còn triển kahi các dự án về sản xuất điện năng không phải CO2. Đó là dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam sẽ được khởi công vào năm 2015 ở Ninh Thuận. Tỉnh Ninh Thuận đã cấp phép đầu tư xây dựng nhà máy điện chạy bằng sức gió có công suất 50 MW. Đây là những bước ứng dụng công nghệ năng lượng mới phù hợp với điều kiện của Việt Nam mà không ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, không gia tăng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là những hoạt động mở đầu, chúng ta còn phải thực hiện ngay những hành động cụ thể như quy hoạch và tiến hành nâng cấp hệ thống đê biển, đê cửa sông bảo đảm chống được mức nước triều tần suất 5% ứng với gió bão cấp 9 (năm 2015) và cấp 10 (năm 2020) đối với các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng Nam. Từng bước thực hiện bốn nhân tố chính là vấn đề buôn bán lượng khí thải, hợp tác kỹ thuật, giảm phá rừng, ứng phó với BĐKH nhằm đạt được những mục tiêu dài hạn để góp phần vào mục tiêu chung của toàn cầu. Dù còn nhiều thách thức nhưng đến nay những chương trình, kế hoạch đã được triển khai, nhất là công tác thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng và đã tạo được nhiều giống cây trồng mới thích nghi với sự BĐKH.
Nhận thức rõ về BĐKH, nhiều nước đã và đang hành động bằng những chính sách cụ thể với hi vọng giảm một lượng đáng kể khí thải gây hiệu ứng nhà kính, trong đó nổi bật là Liên minh Châu Âu, Mỹ và Trung Quốc. Công ước khung của Liên Hợp quốc về BĐKH và Nghị định thư Kyoto là cơ sở cho hợp tác quốc tế bên cạnh những mối quan hệ đối tác và sự tiếp cận khác. Tuy nhiên, những hành động này còn ít và do các nước đang phải đối mặt và nhiều bối cảnh khác nhau khi có sự khác biệt về cách tiếp cận trong việc giải quyết vấn đề BĐKH, nên nếu chỉ là những hành động đơn lẻ của từng nước thì chưa đủ dù là nước lớn hay nước nhỏ bởi đó mới chỉ là một phần của vấn đề mang tính toàn cầu. Vì vậy, cần xây dựng những mục tiêu dài hạn được cộng đồng quốc tế chia sẻ và những khuôn khổ quốc tế để giúp từng nước đóng góp phần của mình nhằm đạt được mục tiêu chung. Những nhân tố chính của khuôn khổ quốc tế trong tương lai cần bao gồm:
Về buôn bán lượng khí thải:Mở rộng và liên kết những cơ chế buôn bán lượng khí thải đang tăng lên trên toàn thế giới là một cách hữu hiệu nhằm thúc đẩy việc giảm lượng khí thải một cách có hiệu quả về mặt chi phí và thúc đẩy hành động ở các nước đang phát triển. Với những mục tiêu mạnh mẽ, các nước giàu có thể đẩy những tiền lớn tới hàng chục tỉ USD/ năm để hỗ trợ chuyển đổi theo hướng ít sử dụng CO2.
Về hợp tác kỹ thuật:Việc điều phối không chính thức cũng như các thỏa thuận chính thức có thể nâng cao hiệu quả đầu tư cải tiến công nghệ trên toàn thế giới. Cần tăng cường hỗ trợ cho nghiên cứu và phát triển (R&D) năng lượng ít nhất lên gấp đôi và ứng dụng triển khai các công nghệ mới ít tiêu dùng các bon gấp 5 lần. Sự hợp tác quốc tế về tiêu chuẩn sản phẩm cũng là một hướng đi mạnh mẽ để nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng.
Về hành động giảm phá rừng:Sự mất rừng tự nhiên trên toàn thế giới góp phần tăng lượng khí thải trên toàn cầu hằng năm nhiều hơn sự phát thải của ngành giao thông vận tải. Vì thế, kiềm chế nạn phá rừng là một cách làm có hiệu quả về mặt chi phí nhàm giảm lượng khí thải và các chương trình quốc tế quy mô lớn nên tìm kiếm những cách thức tốt nhất để làm nhanh điều này.
Về ứng phó:Những người nghèo là những nước bị tổn thương nhiều nhất bởi các tác động của BĐKH. Do đó, cần lồng ghép vấn đề BĐKH vào trong chính sách phát triển và các nước giàu cần tôn trọng cam kết của họ nhằm tăng sự hỗ trợ thông qua sự trợ giúp phát triển hải ngoại. Nguồn tài trợ quốc tế cũng nên hỗ trợ nâng cao công tác thông tin cấp về những tác động của BĐKH và nghiên cứu những giống cây trồng mới có thể chống chịu được với khô hạn và lũ lụt.