Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 04/06/2013 22:50 (GMT+7)

Biến đổi khí hậu (BĐKH) - nước biển dâng (NBD), thách thức với hoạt động giao thông vận tải

Tính đến nay, phát thải CO2 tăng hàng năm của Việt Nam khá nhanh, trung bình 1,2 tấn/năm, tuy nhiên, vẫn thấp hơn so với mức trung bình của thế giới (4,5 tấn/ năm) và so với các nước trong khu vực (như Singapore 12,4 tấn, Malaysia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 tấn, Trung Quốc 3,8 tấn, Indonesia 1,7 tấn). Dự tính tổng lượng phát thải các KNK của Việt Nam sẽ đạt 233,3 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2020, tăng 93% so với năm 1998.

Biến đổi khí hậu - nước biển dâng, biểu hiện xu hướng

BĐKH với các hiện tượng, bao gồm biến động khí hậu, nước biển dâng và các hiện tượng khí hậu cực đoan là một thực tế mà Trái đất đang phải hứng chịu. NBD có thể thấy rõ các hiện tượng thời tiết cực đoan đang hiển hiện. Chuyển thời tiết bất thường, ngược với diễn biến thời tiết đã tồn tại hàng trăm năm, làm thay đổi diễn thế sinh thái, xuất hiện những loài nguy hại; mưa lớn gây lũ lụt, sạt lở; hạn hán tạo ra tình trạng sa mạc hóa ở nhiều vùng trên thế giới trong những năm gần đây là những minh chứng.

Là một quốc gia nằm trên bờ Biển Đông trông ra Thái Bình Dương, với hơn 75% dân số sống dọc theo một bờ biển dài hơn 3.200 km, Việt Nam được đánh giá là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do BĐKH - NBD. Tại Việt Nam, BĐKH đã có những biểu hiện rất rõ nét về biến động của thời tiết, mực nước dâng, các thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán trong vòng 50 năm qua và dễ dàng nhận thấy trong những năm gần đây. Kịch bản BĐKH ở Việt Nam được xây dựng tương ứng với mô hình phát thải thấp, phát thải trung bình và phát thải cao ứng với thay đổi nhiệt độ, lượng mưa và nước biển. Trong khoảng 100 năm qua, nhiệt độ trung bình năm tăng lên khoảng 0,7 0C, nhưng tăng nhanh chủ yếu là từ năm 1961. Nhiệt độ trung bình của 4 thập kỷ gần đây (1961 - 2000) cao hơn trung bình của các thập kỷ trước đó. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè. Vào cuối thế kỷ 21, dự báo nhiệt độ mùa đông có thể tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè ở tất cả các vùng khí hậu ở Việt Nam. So với trung bình thời kỳ 1980 - 1999, nhiệt độ trung bình năm của vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng khoảng 3,1 - 3,6 0C, trong đó, Tây Bắc là 3,3 0C, Đông Bắc là 3,2 0C, Đồng bằng Bắc bộ là 3,1 0C và Bắc Trung bộ là 3,6 0C; mức tăng nhiệt độ ở phía Nam khoảng 2,1 - 2,6 0C, bao gồm Nam Trung bộ 2,4 0C, Tây Nguyên 2,1 0C và Nam Bộ khoảng 2,6 0C. Lượng mưa giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía Nam; tính trung bình trong cả nước, lượng mưa giảm 2% trong vòng 50 năm. Dự báo, vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa vào giữa mùa khô giảm, nhưng lượng mưa các tháng mùa mưa sẽ tăng mạnh. Tính trung bình, lượng mưa năm có thể tăng so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999, khoảng 9 - 10% ở Tây Bắc, Đông Bắc, 10% ở Đồng bằng Bác bộ, Bắc Trung bộ, 4 - 5% ở Nam Trung bộ và khoảng 2% ở Tây Nguyên, Nam bộ. Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm rõ rệt, đặc biệt trong 2 thập kỷ qua. Nhưng các dị thường như rét đậm, rét hại và kéo dài xuất hiện thường xuyên hơn. Số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn, quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía nam và mùa bão kết thúc muộn hơn, nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn. Trong vòng 50 năm qua, mực nước biển trung bình đã tăng lên khoảng 20cm và tăng nhanh trong vòng 12 năm gần đây. Vào giữa thế kỷ 21 mực nước biển trung bình trên toàn dải bờ biển Việt Nam có thể dâng lên 33cm và đến cuôi thế kỷ 21 mực nước biển dâng thêm đến 100cm so với thời kỳ 1980 - 1999.

Những hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra.

BĐKH được biểu hiện theo các hiện tượng, bao gồm biến động khí hậu, nước biển dâng và các hiện tượng khí hậu cực đoan. Khi nhiệt độ trái đất tăng, khối nước đại dương sẽ nở ra và những khối băng vĩnh cửu tại Greenland và Nam Cực sẽ bị đốt nóng, tan băng và mực nước biển sẽ dâng cao. Lượng nước của những khối băng này đủ làm cho mực nước biển dâng cao 70m. Theo dự báo của tổ chức biến đổi khí hậu (IPCC) thuộc Liên Hợp Quốc, khi nhiệt độ tăng 1 0C trong giai đoạn 2010 - 2039, mực nước biển tăng khoảng 20cm; giai đoạn 2070 - 2099, khi nhiệt độ tăng 3 - 4 0C, mực nước biển dâng thêm khoảng 1m. Nhiệt độ trái đất làm cho những diễn biến về ENSO (gồm pha nóng El Nino và pha lạnh El Nina xảy ra trên vùng biển xích đạo - Thái Bình Dương) trở nên phức tạp hơn. Dù tổng lượng mưa ít thay đổi, nhưng thời điểm mưa đã thay đổi, mùa khô kéo dài hơn, mùa mưa nhiều hơn, khiến cho hạn hán và lũ lụt đều có chiều hướng tăng lên. Dễ nhận thấy nhất khi nước biển dâng, đất bị mất do nhiều vùng đất bị ngập vĩnh viễn, kéo theo đó là những biến động về chế độ động lực biển như sóng ven bờ mạnh lên, tiềm ẩn nguy cơ gây xâm thực đường bờ và vùng Cửa sông ven biển; phòng mặn chuyển dịch vào sâu hơn về phía đất liền là thay đổi chế độ cung cấp nước và diễn thế sinh thái toàn vùng. Nếu mực nước biển dâng 1m vào năm 2010 do BĐKH, 14.528 km2 tức khoảng 4,4% lãnh thổ của Việt Nam sẽ vĩnh viễn chìm trong nước biển; hơn 60% hay 39 trong 64 tỉnh thành và 6 trong 8 vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng; gần 20% tức 2.057 xã trong tổng số 10.511 xã bị nhấn chìm một phần hoặc toàn bộ; 4,3% tức 9.200km hệ thống đường giao thông hiện có ở các địa phương và toàn quốc sẽ bị ngập vĩnh viễn. Với 80% diện tích có cao trình trung bình dưới 1m, Đồng bằng sông Cửu Long là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi ngập vĩnh viễn do nước biển dâng, sau là Thành phố Hồ Chí Minh rồi đến vùng Hải Hậu thuộc tỉnh Nam Định. Khi nước biển dâng, triều cường kéo theo động lực sóng tác động lên các đối tượng này sẽ mạnh lên, hậu quả là quá trình xâm thực đường bờ và các quy mô, đe dọa trực tiếp sự tồn tại của các công trình giao thông, các công trình xây dựng, công nghiệp và một số đô thị. Nhiều vùng cửa sông và đường bờ kế cận thường có các thảm thực vật ngập mặn làm giảm động năng của sóng nước khi tiếp cận bờ; tình trạng xâm thực bờ hoặc được ngăn chặn hoặc giảm về mức độ. Tuy nhiên, BĐKH - NBD sẽ gây ngập chìm vĩnh viễn bộ rễ, cây ngập mặn sẽ chết, diện tích rất lớn thảm thực vật sẽ bị mất đi. Nếu mực nước biển dâng 1m năm 2010, 27% diện tích rừng ngập mặn và 20% diện tích rừng đầm lầy ở Việt Nam sẽ bị mất vĩnh viễn. Vùng đất ven biển thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, Thành phố Hồ Chí Minh và Hải Hậu thuộc tỉnh Nam Định là các khu vực dự báo sẽ bị xâm thực mạnh. Ngoài ra, đới bờ biển Duyên hải Miền Trung, nơi có đường bờ chịu tác động mạnh mẽ của quá trình tương tác giữa lũ thượng nguồn và triều cường biển Đông cũng là đối tượng dự báo sẽ bị thay đổi theo hướng vào sâu trong đất liền. Không chỉ gây thiệt hại lớn cho trồng trọt, nuôi trồng thủy sản và sinh hoạt của người dân, sự thay đổi này sẽ làm cho mức độ ăn mòn kim loại tại các công trình tăng lên.

Xuất hiện khí hậu cực đoan

Mưa tăng cường độ; vùng bão dịch chuyển về phía Nam; tần suất và cường độ của các cơn bão tăng nhanh là những minh chứng cho sự thay đổi khí hậu Trái đất theo hướng cực đoan - một biểu hiện rất đặc trưng của BĐKH. Nhưng hình thái thời tiết này không chỉ trực tiếp tạo ra thiên tai mà kéo theo đó là lũ lụt ngập úng vùng châu thổ; các dòng sông tăng cường xâm thực ngang gây sạt lở lớn các vùng đất ở hai bờ; cồn, bãi bồi gây lấp dòng chảy các sông, nhánh sông. Lũ quét lũ bùn đá không còn giới hạn tại vùng núi cao ở phía Tây mà đã xuất hiện tại một số vùng đất ven biển. Miền Trung, đặc biệt là vùng núi phía Tây sẽ là nơi hứng chịu nhiều nhất những thiệt hại do BĐKH, do nằm trên dải đất hẹp, sự ổn định của địa mạo Miền Trung bị đe dọa từ hai phía: phía Tây dốc, rừng bị tàn phá là nơi sinh lũ quét, lũ bùn đá dưới ảnh hưởng của lượng giáng thủy lớn, tập trung, đột ngột và kéo dài; phía Đông là vùng bờ biển bị đe dọa bởi triều cường, NBD. Trên cùng một dải đất hẹp nằm giữa, khi hứng chịu các cơn lũ chảy tràn và lũ quét đổ ra Biển Đông mang theo nhiều vật liệu xói lở từ thượng nguồn, lòng các hồ đập bị lấp dần. Lòng sông, địa mạo các cửa sông thay đổi nhiều sau mỗi mùa lũ theo xu thế bất lợi đã tạo ra trên dải đất này một loại tai biến điển hình khó khắc phục.

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng chịu ngập lũ vào thời kỳ nhất định trong năm. Tuy nhiên, khí hậu cực đoan đã làm thay đổi quy luật này. Trong quá khứ, Đồng bằng sông Cửu Long rất ít khi hứng chịu bão. Nhưng, trong những năm trở lại đây, số cơn bão đổ bộ vào khu vực này nhiều hơn, chậm sau tháng 10, thậm chí sang cả tháng 12, gây lũ lụt tạo ra hậu quả nặng nề cho người và tài sản, điển hình là cơn bão Linda (1997) và Durian (2006). Vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên dù không chịu tác động trực tiếp do BĐKH - NBD từ phía Biển Đông, nhưng với các đồi núi có thảm thực vật bị khai thác mạnh làm lộ ra nhiều vùng đất trống, tiềm ẩn xói, lở sập, đá nhảy, lũ quét khi có mưa lớn, trái mùa xảy ra đột ngột với cường suất lớn xuất hiện sau một thời gian dài chịu khô hạn. Hạ du các hệ thống sông lớn dọc bờ biển Việt Nam cũng là đối tượng chịu hậu quả tạo ra từ chuỗi nguyên nhân bắt đầu từ nhiệt độ Trái đất tăng, BĐKH, thời tiết cực đoan dẫn đến lũ lụt gây biến động chế độ văn thủy lực. Hiện tượng mở rộng diện tích các vùng đất bị ngập úng sâu, kéo dài tại các châu thổ vào mùa mưa lũ; các dòng sông tăng cường xâm thực ngang gây sạt lở lớn tại các vùng dân cư tập trung ở hai bờ và biến động các cồn bãi diễn ra thường xuyên tại các vùng hạ du sông Thái Bình, sông Hồng, sông Lam, sông Sài Gòn, sông Tiền và sông Hậu…

Hoạt động giao thông vận tải - đối tượng góp phần gây nóng lên toàn cầu nhưng nhạy cảm với những tác động do biến đổi khí hậu - nước biển dâng

Sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong hoạt động GTVT là một trong những nguồn làm tăng KNK, nhưng chính GTVT lại là đối tượng nhạy cảm, dễ bị tổn thương nhất trước những hậu quả BĐKH - NBD. Mức độ tổn thương của mỗi loại hình giao thông phụ thuộc vào tính chất, mức độ BĐKH và khả năng thích ứng của đối tượng trước sức ép do nó tạo ra. Các loại hình GTVT chủ yếu chịu sức ép từ BĐKH là cảng biển, đầu mối giao thông được kết hợp với các công trình xây dựng dưới nước và trên bờ cùng các thiết bị đảm bảo cho tàu đậu an toàn, đồng thời cho phép bốc dỡ hàng hóa nhanh chóng, thuận tiện. Cảng biển chịu tác động của các yếu tố tự nhiên hình thành lên động lực biển: sóng, gió, bão, thủy triều, hải lưu, xở lở - bồi tụ… Luồng tuyến và cảng biển đường thủy nội địa hoạt động dựa trên đặc điểm sông ngòi, bao gồm chiều rộng lòng dẫn, độ sâu mức nước và độ dốc của dòng chảy. Bồi xói bờ và hình thành các bãi ngầm dưới tác động của dòng chảy sau mỗi mùa lũ là thách thức lớn nhất đối với hoạt động giao thông đường thủy. Đường bộ, một trong những thách thức lớn nhất là những nguy cơ gây sạt lở tại các vùng núi phía bắc, phía tây và tại các dãy núi đâm ngang do mưa bão và sụt lún tại các vùng nền địa chất yếu trên quy mô rộng (ĐBSCL, hạ lưu hệ thống sông lớn). Ngập lụt tại các thung lũng sông, tại vùng đồng bằng hẹp miền Trung, ĐBSCL cũng là mối đe dọa tới sự ổn định của đường bộ Việt Nam. Một thách thức nữa cũng cần nhắc tới liên quan tới các công trình trên đường bộ là tính ổn định của công trình bị đe dọa, đặc biệt là công trình vượt sông trước sự xâm thực của quá trình tự nhiên như ăn mòn hóa học do độ mặn, các ion chứa gốc axit hoặc xói lở do dòng chảy. Khác với đường bộ, mạng đường sắt Việt Nam không nằm quá sâu trong vùng núi phía Bắc và phía Tây, cũng như quá sát về phía biển. Do vậy, ngoài nguy cơ xâm thực các công trình, thách thức lớn nhất đối với hệ thống đường sắt Việt Nam là những nguy cơ gây sạt lở tại các dãy núi đâm ngang do mưa bão và ngập lụt tại vùng đồng bằng hẹp miền Trung.

Ứng xử đối với BĐKH - NBD của ngành GTVT

Việt Nam đã sớm tham gia và phê chuẩn Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH và Nghị định thư Kyoto, xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về BĐKH theo hướng chủ động thích ứng và tìm biện pháp phòng ngừa, giảm nhẹ hậu quả thiên tai. Để ứng phó tốt nhất cần xác định rõ điều gì sẽ xảy ra đối với đối tượng trước hiện tượng của BĐKH, từ đó chuẩn bị phương án ứng phó tốt nhất. Ứng phó với BĐKH, không thể đơn độc một địa phương, một quốc gia, một ngành mà cả thế giới và đa ngành. Nhưng trong đó, mỗi địa phương, mỗi quốc gia và mỗi ngành phải chủ động xây dựng cho mình một chương trình hành động kèm theo những giải pháp cụ thể phù hợp với các nội dung của chương trình cấp lớn hơn. Trong đó, rất nhiều việc có tầm vóc và quy mô to lớn vừa trước mắt vừa lâu dài cần được tính đến.

Với cách tiếp cận giao thông vận tải vừa là chủ thể đóng góp đáng kể tới BĐKH vừa là đối tượng chịu hậu quả do BĐKH. Ngành GTVT sẽ phải xây dựng đồng thời cho mình Chương trình tiết kiệm nhiên liệu giảm thiểu phát thải KNK và Chương trình hành động ứng phó BĐKH chuyên ngành GTVT, bao gồm các nhóm giải pháp cơ bản sau:

Nhóm giải pháp thứ nhất: giảm phát thải KNK thông qua các hành động liên quan tới tiết kiệm nhiên liệu và năng lượng. Nhóm giải pháp thứ hai: nâng cao nhận thức và kiến thức về BĐKH - NBD cho các đối tượng có liên quan, đặc biệt là các đối tượng quản lý và đối tượng là các đơn vị sản xuất. Nhóm giải pháp thứ ba: rà soát các chiến lược và quy hoạch về GTVT. Đưa nội dung BĐKH - NBD là yêu cầu bắt buộc cần phải xem xét trong công tác lập chiến lược và quy hoạch. Nhóm giải pháp thứ tư: rà soát điều chỉnh các quy định, tiêu chuẩn thiết kế phù hợp với những biểu hiện và diễn biến của BĐKH. Nhóm giải pháp thứ năm: nghiên cứu đề xuất các giải pháp kỹ thuật cụ thể cho từng loại công trình hiện đang khai thác tại các vùng miền khác nhau trước những diễn biến của BĐKH.

Thay kết luận

“BĐKH không còn là nguy cơ, BĐKH đã hiện hiện hàng ngày trong cuộc sống và là thách thức đồi hỏi ngành GTVT phải có trách nhiệm giảm thiểu phát thải KNK và có những biện pháp ứng xử chủ động, linh hoạt và thích ứng với BĐKH”. An liên chính phủ về biến đổi khí hậu.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.