Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 24/06/2005 17:23 (GMT+7)

Biến bùn thành... tiền!

Gạch, bột màu (đỏ), chất san nền, kim loại dạng cục được sản xuất từ bùn thải

Gạch, bột màu (đỏ), chất san nền,
kim loại dạng cục được sản xuất
từ bùn thải Ước tính mỗi ngày các thành phố lớn ở Việt Nam thải ra hơn 600 tấn bùn, trong đó có bùn cống rãnh, kênh rạch, nhà máy xử lý nước thải tập trung của khu công nghiệp, nhà máy nước, nhà máy luyện kim...


Lượng bùn thải ra quá nhiều song không có biện pháp xử lý thích hợp, chủ yếu là chôn lấp, vừa tốn tiền lại vừa bỏ phí những thành phần hữu ích trong đó. Nhận thấy tiềm năng bị bỏ quên này, từ đầu năm 2005, Thạc sĩ Loan cùng cộng sự đã bắt tay vào nghiên cứu công nghệ tái chế bùn thải để sản xuất công nghiệp và cải tạo đất nông nghiệp.


Công việc đầu tiên mà nhóm nghiên cứu phải làm là lấy mẫu bùn mang về phòng thí nghiệm. Bùn cống rãnh, kênh rạch thì được lấy thoải mái, chẳng ai cấm. Tuy nhiên, thu thập bùn từ các nhà máy xử lý nước thải tập trung của KCN, doanh nghiệp thì khó khăn hơn rất nhiều, phải rình rình khi nào nhà máy kêu xe đến đổ rác thì mới lấy được.

Nguyên nhân là các doanh nghiệp sợ chị Loan nghiên cứu và phát hiện ra tình trạng gây ô nhiễm của họ. Kết quả phân tích các mẫu bùn cho thấy bùn kênh rạch và cống rãnh có nồng độ chất vô cơ (cát, đá, sỏi vụn) và thành phần chất dinh dưỡng như nitơ, phốt pho rất cao, có thể sử dụng trong sản xuất vật liệu xây dựng và cải tạo đất. Còn bùn từ nhà máy xử lý nước thải KCN, nhà máy luyện kim, chứa nhiều kim loại nặng, chất vô cơ (đối với xử lý nước thải KCN) nên rất thích hợp cho sản xuất VLXD và thu hồi kim loại.

Mặc dầu vậy, để có thể dùng bùn vào những mục đích nói trên, trước tiên các nhà khoa học phải phân tích, xác định liên kết của kim loại trong bùn (xem kim loại liên kết chủ yếu với thành phần hữu cơ hay vô cơ). Sau đó, tuỳ thuộc vào các loại bùn mà sử dụng phương pháp xử lý khác nhau hoặc kết hợp các phương pháp.

Hàm lượng kim loại nặng (mg/kg trọng lượng bùn khô)

KCN

Luyện kim

Sắt: 30.800-31.600
Đồng: 5-8.000
Crom: 3-9.574
Chì: 545-11.000
Kẽm: 1.200-28.900

Sắt: 25.000-210.000
Đồng:1.600-1.800
Cadimi: 1-833
Chì: 3-19.000
Kẽm: 100-446.000

Chẳng hạn đối với bùn cống rãnh và kênh rạch, chị Loan đã dùng thuỷ lực để tách các thành phần hữu cơ và vô cơ: để bùn trong bồn hình trụ rồi bơm nước vào, chất vô cơ nặng sẽ lắng xuống đáy bồn trong khi chất hữu cơ nhẹ hơn nổi lên trên và được hút ra ngoài. Tiếp đến, hệ thống van dưới bình được mở để lấy chất vô cơ ra.

Chất vô cơ (chiếm 70-93%) được dùng để sản xuất gạch xây tường, gạch lát vỉa hè hoặc san nền. Còn chất hữu cơ được xử lý tiếp bằng phương pháp sinh học: dùng vi sinh vật tiết axít để hoà tan các kim loại nặng rồi tách chúng ra. Cuối cùng, phần bùn hữu cơ sạch được rải lên bãi chôn lấp rác để trồng cây và cải tạo đất nông nghiệp. Các kim loại nặng được trộn với nhiều chất kết tủa để tách riêng từng kim loại hoặc hoá rắn toàn bộ để chôn lấp an toàn.

Thạc sĩ Loan đứng cạnh mô hình bình thuỷ lực tách bùn tại Cuộc thi Ngày sáng tạo Việt Nam

Thạc sĩ Loan đứng cạnh
mô hình bình thuỷ lực tách bùn tại Cuộc thi Ngày sáng tạo Việt Nam

Trái ngược với bùn cống rãnh, bùn từ các nhà máy xử lý nước thải tập trung của KCN, nhà máy luyện kim, cơ khí, xử lý nước lại chứa nhiều kim loại nặng như chì, thuỷ ngân, nikel, crom, đồng, sắt...

Do vậy, chị Loan cũng dùng phương pháp sinh học để tách kim loại. Phần vô cơ chiếm 59-67% được sử dụng làm VLXD. Bùn từ nhà máy nước hoặc nhà máy phi mạ chứa nhiều sắt (hàm lượng sắt là 1.778-5.334mg/kg) nên được tận dụng làm bột màu hoặc sản xuất đinh. Loại bùn khó xử lý nhất là bùn chứa nhiều chất hữu cơ độc hại, chẳng hạn như chất hữu cơ bền POBs từ nhà máy sản xuất hoá chất, nhựa.

Đối với loại bùn này phải dùng tới phương pháp trích ly hoá học: dùng dung môi để tách chất ô nhiễm, sau đó thu hồi dung môi cùng chất bẩn để xử lý.


Theo tính toán trong phòng thí nghiệm, giá thành xử lý bùn cống rãnh, kênh rạch chỉ là 90.000 đồng/tấn so với 300.000 đồng chi phí chôn lấp, thu lợi 113.000 đồng/tấn. Xử lý một tấn bùn chứa kim loại bằng phương pháp truyền thống (sấy, đốt, hoá rắn, chôn lấp) phải mất 4 triệu đồng trong khi xử lý bằng phương pháp sinh học và hoá học chỉ mất 1,3 triệu đồng.

Với những tiềm năng bảo vệ môi trường cũng như hiệu quả kinh tế của công trình nghiên cứu trên, Ngân hàng thế giới đã quyết định tài trợ 10.000 đôla tại Cuộc thi Ngày sáng tạo Việt Nam để chị Loan triển khai dự án trong thực tế.

Nguồn: VietNamNet ngày 17/6/2005.

Xem Thêm

Nữ tiến sĩ Tây học đầu tiên của Việt Nam
Người phụ nữ này là nữ tiến sĩ Tây học đầu tiên của Việt Nam. Tên tuổi của bà từng nổi đình nổi đám, thậm chí cánh mày râu trước khi gặp cũng phải chuẩn bị lời ăn tiếng nói cẩn thận.
Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.

Tin mới

An Giang: Phát huy vai trò trí thức khoa học công nghệ
Trí thức khoa học công nghệ là lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững. Tại An Giang, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp Hội) đã khẳng định vai trò là "người dẫn đường", kết nối và phát huy năng lực của đội ngũ trí thức.
Bình Thuận: Công tác phối hợp các hội thành viên gắn kết và hiệu quả
Công tác phối hợp với các hội thành viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Liên hiệp hội tỉnh. Trong những năm qua nhất là trong năm 2024, công tác phối hợp với các hội thành viên trong hệ thống Liên hiệp hội đã đạt được nhiều kết quả trong tổ chức hội thảo khoa học.
Yên Bái: Hội nghị Ban chấp hành lần thứ X
Chiều ngày 19/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (LHH) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành lần thứ X, khoá V, nhiệm kỳ 2020-2025 (mở rộng) nhằm tổng kết hoạt động năm 2024 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2025. Ông Tạ Văn Long - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh chủ trì Hội nghị.