Bệnh nhiễm giun móc
Con giun dài khoảng 6mm, được gắp ra nguyên vẹn bằng kềm sinh thiết, gởi đến phòng xét nghiệm ký sinh trùng định danh và đã được xác định là con giun đực, có tên là Necator americanus.
Nhiễm giun móc là bệnh chỉ xảy ra ở người, thường gặp ở các vùng có khí hậu ẩm ướt, nhiệt đới và cận nhiệt đới do Ancylostoma đuoenalevà Necator americanusgây ra. Bệnh nhiễm giun móc có thể nặng đến mức gây ra tình trạng suy nhược, chậm lớn và chậm phát triển ở trẻ em, ngoài ra, có thể làm trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm trùng khác. Có nơi do vệ sinh kém còn sử dụng phân tươi tưới rau cộng thêm khí hậu ẩm ướt đã làm cho tỷ lệ nhiễm giun lên đến 80%. Bệnh ít thấy ở những nơi khô hạn, có lượng mưa hàng năm dưới 1.000 mm.
![]() |
Giun móc trưởng thành dài khoảng 10 mm. Miệng Ancylostomacó những răng hình móc, còn Necatorcó răng như 2 lưỡi dao để bám vào niêm mạc ruột non. Mỗi ngày một con giun cái Ancylostomacó thể hút 0,2 ml máu và có thể đẻ 20.000 trứng. Trứng giun theo phân ra ngoài gặp nơi đất ấm và ẩm thì phát triển thành ấu trùng. Ấu trùng giun móc có khả năng lây nhiễm từ vài giờ đến gần 1 tuần, tùy thuộc vào điều kiện môi trường. Ấu trùng giun móc xâm nhập qua da do người bệnh đi chân đất hoặc làm những việc tiếp xúc với đất cát mà không có dụng cụ bảo hộ. Sau đó ấu trùng theo máu đến phổi, chui vào phế nang, lên đến phế quản, khí quản và khi lên tới vùng ngã tư hầu - họng lại được nuốt xuống thực quản để vào hệ tiêu hóa. Ấu trùng đi dần theo ống tiêu hóa xuống bám vào đoạn đầu của ruột non, trưởng thành và bắt đầu đẻ trứng sau 6 - 8 tuần. Nhiễm Ancylostomacòn có thể do nuốt ấu trùng trong thức ăn hoặc nước uống.
![]() |
Giun Ancylostomatrưởng thành sống khoảng 4 - 5 năm, còn giun Necatorsống khoảng 10 - 15 năm.
Giun móc bám vào niêm mạc ruột và sống nhờ hút máu tại chỗ, gây nên tình trạng thiếu máu cho người bệnh. Lượng máu mất đi tỷ lệ thuận với số lượng giun trong cơ thể. Có thể ước lượng số giun ký sinh trong cơ thể bằng cách đếm trứng trong phân: 5.000 trứng trong 1 gam phân, tương ứng với 500 giun móc. Sau khi nhiễm giun móc vài năm, nếu ăn uống không đầy đủ chất sắt thì dự trữ sắt trong cơ thể bị sụt giảm và tình trạng thiếu máu có thể xảy ra. Nếu chất sắt được cung cấp đầy đủ thì các triệu chứng không rõ, nhưng ở những người suy dinh dưỡng sẽ có các triệu chứng của thiếu máu thiếu sắt và giảm protein máu như mệt mỏi, thở hụt hơi, da niêm nhợt nhạt.
![]() |
![]() |
Khi ấu trùng lên phổi có thể ho khan và sốt nhẹ. Ở giai đoạn ruột sớm, người bệnh có thể bị đau ở vùng thượng vị, tiêu chảy do viêm ruột kèm tăng bạch cầu ái toan trong máu. Giun trưởng thành bám vào niêm mạc tá tràng và phần trên hỗng tràng, nếu nhiễm nhiều có thể giun ở hồi tràng và người bệnh có thể đau bụng lầm ngầm hoặc đau nhiều như loét dạ dày, kèm thêm chán ăn, tiêu chảy, thèm ăn đất…
Việc chẩn đoán thường dựa vào xét nghiệm phân tìm trứng giun móc, rất khó phân biệt trứng của hai loài trên. Trong mẫu phân để lâu trứng có thể nở thành ấu trùng giống với ấu trùng giun lươn Strongyloides stercoralis.
Xét nghiệm máu của người bệnh thấy hồng cầu nhỏ nhược sắc, tăng bạch cầu ái toan, giảm albumin máu, sắt huyết thanh thấp, ferritin huyết thanh thấp…
Hiếm khi nội soi dạ dày - tá tràng tìm thấy giun móc như trường hợp trên.
Bệnh nhiễm giun móc có thể được điều trị bằng các thuốc trị giun sán hiệu quả cao và an toàn như mebendazol, albendazol, pyrantel… không cần dùng thêm thuốc thuận tràng. Trường hợp thiếu máu thiếu sắt nhẹ có thể chỉ cần uống bù sắt bằng thuốc viên. Nếu nặng hơn gây thiếu protein và hấp thu kém thì phải điều trị bằng chế độ dinh dưỡng và cần thiết uống bù sắt kéo dài.