Bệnh lùn xoắn lá hại lúa?
Đến đầu những năm 80 của thế kỷ trước, sau khi cơ bản đã thanh toán xong đợt dịch rầy nâu này thì tình hình phát sinh, phát triển và gây hại của bệnh cũng tạm thời lắng xuống. Chính vì thế chúng không được nhắc tới nhiều và thường xuyên như rầy nâu, sâu cuốn lá, bọ trĩ, bệnh đạo ôn, bệnh đốm vằn… nên nhiều bà con nông dân không còn nhớ đến nó, và khi được nhắc tới thì chúng ta lại tưởng đây là một loại bệnh mới.
Vụ lúa đông xuân 2005-2006 vừa qua rầy nâu đã xuất hiện và gây hại nặng ở nhiều tỉnh thuộc ĐBSCL. Đến này, trong tổng số gần 200.000 ha lúa hè thu sớm đang ở thời kỳ mạ đẻ nhánh, ở đây đã có tới gần 7.000 ha bị nhiễm rầy nâu. Đáng chú ý là trên trà lúa này cùng với bệnh vàng lùn, bệnh lùn xoắn lá cũng đã xuất hiện rải rác trên khoảng 460 ha thuộc một số nơi của Tiền Giang, Đồng Tháp, Long An. Vì thế bà con cần phải hết sức cảnh giác với bệnh.
Triệu chứng của bệnh
Triệu chứng điển hình nhất là cây bệnh bị thấp lùn (lá vẫn còn giữ được mầu xanh), lá bị xoắn, sinh trưởng chậm và khó trỗ bông.
- Thấp lùn: Cây lúa bị lùn do tăng trưởng chậm cả về chiều cao cây và bề dài lá (chiều cao cây có thể giảm tới 50%, tuỳ giống và giai đoạn bị nhiễm sớm hay trễ) đây là biểu hiện rõ rệt và ổn định, giúp nhận biết dễ dàng cây bị bệnh trên đồng ruộng.
- Xoắn lá: Lá lúa vẫn giữ màu xanh bình thường, nhưng bị xoắn lại thành nhiều vòng theo hình lò xo hoặc trôn ốc (giống hình mũi khoan). Những lá đã già hoặc bánh tẻ mới bị nhiễm bệnh thì thường chỉ bị xoắn nhẹ ở phần đỉnh, những lá non mới sinh ra đã bị bệnh thì bị xoắn tít lại như lò xo, ngoài ra lá bệnh có thể bị rách ở mép thành những đoạn ngắn có hình chữ V hoặc răng cưa, mặt lá nhăn nhúm, mép lá biến mầu thành dải sọc trắng. Gân phiến lá và phía trên bẹ lá bị sưng từng đoạn ngắn tạo ra các bướu có mầu trắng hay mầu vàng nhạt, đôi khi có mầu nâu hay nâu đậm, bướu có thể rộng 0,5-1mm và dài từ vài mm đến vài cm.
- Hình dáng bụi lúa bệnh: Trông thô cứng và có xu hưóng đẻ nhánh nhiều hơn cây lúa bình thường. Cây bệnh thường mọc ra nhiều chồi từ những đốt ngang thân, những chồi này cũng cho hạt nhưng hại bị lép, lửng. Cây lúa bệnh trỗ bông muộn hơn cây bình thường và thường trỗ không thoát, nếu trỗ thoát thì bông cũng ngắn và lép nhiều. Ruộng bị hại nặng số cây bị bệnh có thể lên đến 90-100%, làm giảm năng suất đến 90% hoặc mất trắng không cho thu hoạch.
Ngoài lúa, còn gặp bệnh trên một số loại cỏ dại mọc phổ biến ở đồng ruộng như cỏ lồng vực, cỏ đuôi phụng, cỏ ống và cỏ chát.
Phòng ngừa
Do đây là một bệnh virus nên chưa có thuốc để chữa trị. Vì thế để hạn chế tác hại của bệnh nên áp dụng kết hợp một số biện pháp sau đây để phòng ngừa:
- Sau khi thu hoạch lúa cần cày bừa, trục gốc rạ kịp thời để diệt lúa chét (đặc biệt là ở những ruộng vừa bị bệnh), vệ sinh đồng ruộng, chú ý diệt những loại cỏ dại là ký chủ phụ của bệnh như đã nêu ở trên.
- Ở giai đoạn lúa còn nhỏ đến đẻ nhánh nếu bị bệnh gây hại nặng, tỷ lệ nhiễm trên 30% tốc độ lây lan mạnh, nên cày vùi hoặc phun xịt những loại thuốc trừ cỏ không chọn lọc để huỷ diệt lúa rồi bừa trục gieo sạ lại. Với những ruộng khác phải thường xuyên kiểm tra để phát hiện sớm và nhổ bỏ kịp thời những cây bị bệnh vùi xuống bùn hoặc đưa ra khỏi ruộng tiêu huỷ.
- Ở những vùng thường bị bệnh gây hại nặng, nếu điều kiện cho phép nên thực hiện chế độ luân canh 2 vụ lúa 1 vụ mầu, để cắt đứt nguồn thức ăn của rầy nâu và giảm bớt nguồn bệnh trên đồng ruộng.
- Áp dụng biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp để phòng ngừa rầy nâu (môi giới truyền bệnh).
Nguồn: Khoa học & Đời sống, số 29, ngày 10/4/2006








