Bệnh Hémophilia B và liệu pháp gen
Hémophilialà nhóm bệnh do thiếu hay không có yếu tố đông máu, vì thế khi bị một tổn thương dù nhỏ cũng không thể cầm máu, máu cứ chảy hoài gây mất máu nặng và có thể nguy hiểm tính mạng. Tùy theo yếu tố đông máu nào bị thiếu mà người ta phân loại bệnh: Hémophilia A là do thiếu yếu tố VIII, Hémophilia B là thiếu yếu tố IX và Hémophilia c là thiếu yếu tố X. Hémophilia A và B thường gặp hơn Hémophilia C.
Các thể bệnhdựa vào mức độ yếu tố đông máu nhiều hay ít: thể nặng: khi yếu tố đông máu < 1%; thể trung bình từ 1 - 5%; thể nhẹ từ 5 - 30%.
Bệnh liên quan đến nhiễm sắc thể giới tínhX vì yếu tố đông máu được gen trên nhiễm sắc thể X tổng hợp. Người mắc bệnh Hémophilia có thể do gen này bị đột biến hay gen bệnh từ mẹ truyền sang. Vì liên quan đến nhiễm sắc thể giới tính nên con gái từ người mẹ bệnh sẽ mang gen bệnh nhưng không mắc bệnh (dị hợp tử: 1 gen X bình thường từ cha và 1 gen X bệnh từ mẹ), con trai mắc bệnh do 1 gen Y từ cha và 1 gen X bệnh từ mẹ. Phái nữ bị bệnh có thể do di truyền từ cha và mẹ hay bị đột biến gen.
Bệnh của hoàng tộc châu Âu:Câu chuyện về bệnh Hémophilia từ nữ hoàng Victoria truyền sang các hoàng tộc ở châu Âu đã minh họa cho sự di truyền theo kiểu lặn, liên quan giới tính của bệnh này. Nữ hoàng Victoria bị Hémophilia do đột biến gen, bà đã truyền gen bệnh lại cho các con. Con trai Leopold mắc bệnh, các con gái mang gen bệnh. Các công chúa được gả cho các hoàng đế, hoàng thân ở Châu Âu đã truyền bệnh lại cho cháu ngoại trai của nữ hoàng Victoria. Tại Nga, hoàng hậu Alexandra đã truyền gen bệnh cho hoàng tử Tsarevich Alexei Nicolaevich là con trai bà với hoàng đế Nicolas II. Tại Tây Ban Nha, công chúa út của nữ hoàng là Beatric sinh ra Victoria Eugenie Battenberg. Victoria Eugenie Battenberg về sau là nữ hoàng Tây Ban Nha đã sinh 2 hoàng tử (là cháu cố ngoại của nữ hoàng Victoria), cả hai đều bị Hémophilia và về sau chết vì xuất huyết nội do tai nạn nhỏ.
Triệu chứngcủa Hémophilia tùy theo mức độ bệnh nặng hay nhẹ. Bệnh thể nhẹ thường không có triệu chứng đáng kể trừ khi phẫu thuật hay chấn thương nặng. Bệnh thể nặng và trung bình thường biểu hiện xuất huyết kéo dài hay xuất huyết nội, thí dụ xuất huyết trong khớp, trong ổ bụng, trong não sau một chấn thương hay va chạm nhẹ. Xuất huyết khớp gây tổn thương và biến dạng khớp vĩnh viễn, xuất huyết não gây tử vong hoặc liệt phần tương ứng, xuất huyết trong ổ bụng có thể gây tử vong. Đặc biệt, thể nặng có thể xuất huyết tự phát không do chấn thương. Xuất huyết ở cơ bắp và mô dưới da biểu hiện bằng các vết bầm máu, tụ máu dưới da là những triệu chứng nghi ngờ Hémophilia khi xảy ra ở trẻ em tuổi tập đi, dễ bị té ngã hay va chạm, cần chẩn đoán xác định bệnh bằng cách đo nồng độ các yếu tố đông máu.
Cho đến nay, việc điều trị Hémophiliavẫn là truyền yếu tố đông máu bị thiếu hụt. Điều này có nhiều tác hại như: cơ thể tạo phản ứng với yếu tố đông máu truyền vào nên hiệu quả điều trị giảm, có thể truyền sản phẩm từ máu người bị bệnh (Thí dụ: HIV, viêm gan siêu vi B...); Một bệnh nhân Hémophilia người Mỹ là Ryan White đã bị nhiễm HIV do truyền máu, bởi vì trước năm 1985 tại Mỹ chưa ban hành luật tầm soát máu và các sản phẩm từ máu trước khi truyền. Ước tính tại Hoa Kỳ có 50% bệnh nhân Hémophilia bị nhiễm HIV, viêm gan siêu vi do truyền sản phẩm từ máu.
Liệu pháp gen điều trị Hémophilia
Ngày 10.12.2011, kết quả nghiên cứu giai đoạn I xuất hiện trên phiên bản trực tuyến của Tạp chí Y học New England.Các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện St Jude ở Memphis cho biết: Các triệu chứng xuất huyết được cải thiện đáng kể ở người lớn mắc bệnh Hémophilia B sau khi điều trị với liệu pháp gen và liệu pháp này được chứng minh là an toàn trong một thử nghiệm lâm sàng thực hiện tại Đại học London ở Anh.
Nghiên cứu chứng tỏ rằng liệu pháp gen có thể làm giảm thời gian chảy máu kéo dài ở những bệnh nhân mắc Hémophilia và không bị chảy máu tự phát. Một số bệnh nhân đã tham gia vào các hoạt động thể thao mà trước khi dùng liệu pháp gen họ khó có thể thực hiện.
Đây là một phương pháp điều trị có khả năng thay đổi cuộc sống cho bệnh nhân Hémophilia và là cột mốc quan trọng cho lĩnh vực liệu pháp gen. Có thể áp dụng hiệu quả cho việc điều trị bệnh Hémophilia A, Hémophilia C và các rối loạn gan và các bệnh mãn tính như xơ nang.
Những nỗ lực trước đây nhằm giảm bớt các triệu chứng Hémophilia B bằng liệu pháp gen đã không thành công.
Nghiên cứu hiện nay sử dụng Adeno Associated Virus (AAV) 8 làm vector để cung cấp các gen tổng hợp yếu tố IX cùng với các vật liệu di truyền bổ sung vào gan của bệnh nhân. AAV8 đã được chọn bởi vì tỷ lệ lây nhiễm tự nhiên với AAV8 thấp. Nó thuộc về nhóm virus hướng tới các tế bào gan nhưng không gây bệnh ở người và có khả năng tích hợp gen tổng hợp yếu tố IX vào DNA của con người.
Trong nghiên cứu này, mỗi bệnh nhân được tiêm truyền vector vào một tĩnh mạch ở cánh tay. Hai bệnh nhân đã được điều trị với liều tăng dần vector. Sau khi điều trị, yếu tố IX tăng trong tất cả sáu bệnh nhân từ dưới 1% trước khi thực hiện liệu pháp gen lên đến giữa 2 và 12%.
Mức tăng yếu tố IX nhiều nhất trong các bệnh nhân tình nguyện nhận được vectơ thử nghiệm liều cao nhất. Sau khi điều trị, nồng độ của yếu tố IX dao động từ 3 đến 12% ở các nam bệnh nhân. Ngay cả tăng khiêm tốn (chỉ nâng yếu tố IX lên hơn 1% so với mức bình thường của bệnh nhân) cũng ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và giảm thời gian chảy máu, tác giả chính của nghiên cứu Andrew Davidoff, chủ tịch Bộ phận Phẫu thuật Bệnh viện St Jude cho biết: “Bệnh nhân đầu tiên đã được theo dõi trong thời gian hơn 18 tháng, và mức độ yếu tố IX vẫn còn ở mức 2%. Những kết quả này được đánh giá cao và khuyến khích nghiên cứu tiếp tục. Có nhiều bệnh nhân sẽ được ghi danh trong các thử nghiệm trong tương lai”.
Mọt trong những người tham gia đã nhận được liều cao nhất của vector đã thành công, điều trị steroid ngắn hạn sau khi các enzym gan tăng nhẹ sau khi truyền các vector. Sự gia tăng báo hiệu tổn thương gan nhẹ. Các tình nguyện viên vẫn khỏe mạnh, mức yếu tố IX vẫn còn ở trên mức trước khi tiêm truyền và các enzym của gan đã trở lại bình thường. Ở những người tham gia khác cũng nhận liều cao nhất của các vector, men gan cũng tăng nhẹ nhưng vẫn ở mức bình thường.