Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo tổ quốc góp phần giữ gìn ổn định và xây dựng vùng biển hòa bình của khu vực
Biển Đông là một vùng "biển nóng" - nơi đang diễn ra sự tranh giành quyết liệt về lợi ích, chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia và cũng là nơi tập trung nhiều mâu thuẫn đan xen, phức tạp về kinh tế, chính trị của khu vực, thế giới. Trong những năm gần đây, hầu hết các nước có lợi ích liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp ở Biển Đông đều có sự thay đổi chính sách về biển. Đối với Việt Nam đang trong quá trình nỗ lực phấn đấu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong khi đó Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề mang tính toàn cầu: nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên trên đất liền; dân số gia tăng; đất đai canh tác ngày càng thu hẹp do nhu cầu phát triển hạ tầng, mở rộng đô thị… Vì thế, về lâu dài chúng ta phải hướng mạnh ra biển, triệt để khai thác mọi tiềm năng, lợi thế của biển phục vụ cho nhu cầu phát triển đất nước.
Gắn với xu thế thời đại, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, tham gia vào hàng loạt các tổ chức thương mại quốc tế, nhằm bảo đảm yêu cầu giao thương thông suốt (trong đó có vấn đề quan trọng là duy trì, bảo đảm an ninh các tuyến giao thông vận tải, nhất là tuyến giao thông vận tải biển), vấn đề tăng cường sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia góp phần tạo điều kiện xây dựng vùng biển hòa bình, ổn định ở Biển Đông trở thành một vấn đề then chốt.
Cũng cần thấy rằng, xuất phát từ yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện tranh chấp chủ quyền biển, đảo ở khu vực đang diễn ra ngày càng phức tạp, với tính chất quyết liệt, khó lường, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia Việt Nam trên biển đã trở thành vấn đề thời sự, đặt trước nhiều thách thức. Tăng cường sức mạnh quốc gia trên biển là nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hoàn thành được nhiệm vụ hết sức thiêng liêng nhưng cũng vô cùng nặng nề đó.
Nhận thức rõ yêu cầu của thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình, điều kiện lịch sử mới, những năm vừa qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn coi trọng vấn đề tăng cường sức mạnh quốc gia, nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.
Trên cơ sở nhất quán với quan điểm: "Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân; kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên cảu Đảng, Nhà nước và của toàn dân" 1. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4-2006), Đảng ta đã đặc biệt nhấn mạnh tới các vấn đề nhằm tăng cường sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc: củng cố, xây dựng thế trận và lực lượng quốc phòng - an ninh, trong đó chú trọng thế trận kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và công tác đối ngoại; không ngừng tăng cường lực lượng về mọi đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới; phát huy mọi tiềm năng của đất nước, thực hiện mọi biện pháp cần thiết để xây dựng sức mạnh của quốc gia trên biển… Đại hội X khẳng định: "Phát triển mạnh kinh tế biển vừa toàn diện, vừa có trọng tâm trọng điểm với những ngành có lơi thế so sánh để đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế" 2, đồng thời nhấn mạnh đến một vấn đề cần thiết và cấp bách là: phải "Bố trí thế trận quốc phòng, an ninh phù hợp với tình hình mới và kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy các nguồn lực, lồng ghép các chương trình, các dự án để xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo" 3.
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội X, tại Hội nghị Trung ương 4 (2-2007), Đảng đã ra Nghị quyết chuyên đề Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Đây là một chiến lược tổng thể, bao gồm các chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược về quốc phòng, an ninh, chiến lược đối ngoại và hợp tác quốc tế, nhằm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế biển, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Trong Nghị quyết, xuất phát từ nhận thức, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay là một nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng, nhưng cũng hết sức nặng nề, nhiều khó khăn, thách thức, nhiệm vụ đó có thể thực hiện tốt được hay không, trước hết luôn phụ thuộc trực tiếp vào thế và lực của đất nước, Đảng ta khẳng định: Phải tăng cường thế và lực để làm chủ vùng biển, đảo Tổ quốc. Với quan điểm chỉ đạo nước ta phải trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu lên từ biển, Đảng đã xác định rõ mục tiêu: Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm giàu cho đất nước.
Trong định hướng chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Đảng nhấn mạnh: Nhiệm vụ cơ bản lâu dài và xuyên suốt là xác lập chủ quyền đầy đủ, quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán vùng biển, thềm lục địa, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các quần đảo, đảo khác thuộc chủ quyền của nước ta. Nhiệm vụ trước mắt là phải bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và lợi ích quốc gia trên vùng biển, đảo, duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển. Để thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ này, một trong những vấn đề quan trọng là cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp, đồng thời xây dựng một lực lượng mạnh để bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh trên biển. Trong đó, vấn đề tăng cường sức mạnh cho lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ chuyên trách trên biển, đặc biệt là lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam - lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền biển, đảo… là vấn đề chiến lược mang tính cấp bách, có ý nghĩa quyết định trực tiếp.
Quan điểm đó tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (1-2011): Cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đặc biệt là hợp tác về quốc phòng, an ninh để giữ vững chủ quyền biển, đảo quốc gia, không thể thụ đồng, bất ngờ trong mọi tình huống, tích cực thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển, thềm lục địa với các nước có liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực.
Đối với vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung và bảo vệ chủ quyền biển, đảo đất nước nói riêng, Đảng tiếp tục chỉ rõ: Xây dựng quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp.
Về vấn đề dân số biển đảo, tính đến năm 2006, Việt Nam có 28/64 tỉnh, thành phố ven biển với tổng dân số xấp xỉ 41,2 triệu người, chiếm khoảng 50% dân số cả nước. Trong đó có khoảng 21 triệu người trực tiếp sinh sống ở các vùng ven biển và hải đảo. Tuy nhiên, mật độ dân số ở các vùng ven biển là không đồng đều. Mật độ bình quân của các tỉnh ven biển trên cả nước là 369 người/km 2. Năm 2001, ở các tỉnh ven biển phía Bắc tính từ Quảng Ninh đến Ninh Bình, mật độ là 981 người/km 2; tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên cao; trình độ dân tri tương đối thấp, có những nơi như ở các vùng hải đảo rất thấp (theo khảo sát, cư dân các vùng nông thôn ven biển hải đảo, đặc biệt là cư dân ngư nghiệp, đa số có trình độ học vấn thấp, tỉ lệ người không biết chữ cao, chiếm 20% tổng cư dân) 4… Đây là những nhân tố tác động không nhỏ đến việc phát triển kinh tế biển và bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ chủ quyền biển đảo. Trong điều kiện như vậy, nhằm phát huy thế trận kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh, tăng cường sức mạnh quốc gia trên biển, cần phải hết sức chú trọng bồi dưỡng nguồn nhân lực và nâng cao trình độ dân trí cho cư dân các vùng ven biển, hải đảo. Đó là việc làm có ý nghĩa lớn không chỉ đối với sự phát triển kinh - xã hội các địa phương, mà còn góp phần tăng cường lực - thế bảo đảm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Thực tế cho thấy, lực lượng cư dân sống trên các vùng biển đảo, nhất là lực lượng cư dân trực tiếp sống bằng nghề biển đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đồng thời cũng là lực lượng tại chỗ đông đảo góp phần vào nhiệm vụ quốc phòng - an ninh bảo vệ trật tự, an ninh trên biển khi có tình huống bất trắc xảy ra.
Tuy nhiên hiện nay, xét trên tổng thể về cơ cấu, số lượng và chất lượng cư dân sống và làm nghề trực tiếp trên biển còn rất nhiều vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết. Ví dụ như vấn đề tiếp tục phân bố lại mật độ dân số cư dân giữa các vùng, miền bảo đảm tính cân bằng, việc nâng cao đời sống cho người dân ven biển hay công tác di dân ra các hải đảo đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho cư sống ổn định, làm việc lâu dài, nhất là ở các đảo ở xa bờ có vị trí chiến lược, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, tăng cường sức mạnh, lực lượng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Nhận thức rõ được vấn đề này, trên cơ sở quán triệt chủ trương chung trong những năm qua, Đảng đã chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao đời sống nhân dân vùng ven biển, hải đảo.
Trên đây là những chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của đất nước, góp phần gìn giữ sự ổn định và xây dựng vùng biển hòa bình của khu vực trong tình hình hiện nay.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, CTQG, H, 2005, tr.661-662.
2,3. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, CTQG, H, 2006, tr.225, 228.
4. Ban Tư tưởng - Văn hóa trung ương: Tài liệu tuyên truyền biển, đảo năm 2006-2006, Hà Nội tháng 2-2006.








