Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể
…Công ước Bảo vệ Di sản Văn hóa phi vật thể được đưa ra tại phiên họp toàn thể của Unesco tháng 10/2003 và có hiệu lực năm 2006 khi được 30 quốc gia phê chuẩn (1). Mặc dù tuổi đời của Công ước còn rất trẻ, hiện nay nó đã được 135 quốc gia phê chuẩn. Nhận thức quốc tế về khái niệm di sản văn hóa không còn dừng lại với di sản vật thể, công trình kỷ niệm và các bộ sưu tập hiện vật. Di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm truyền thống truyền khẩu, nghệ thuật biểu diễn, thực hành xã hội, nghi lễ, lễ hội, kiến thức và kỹ năng của nghề thủ công truyền thống, trong vô số biểu đạt và thực hành khác, nay được coi là phần quan trọng trong di sản của chúng ta, được tổ tiên trao lại cho chúng ta và đặt lên chúng ta trách nhiệm truyền lại chúng cho các thế hệ tương lai. Sự phê chuẩn nhanh chóng là bằng chứng về mối quan tâm của cộng đồng quốc tế với việc bảo vệ di sản sống của thế giới trước những thách thức và đe dọa do sự chuyển đổi xã hội nhanh chóng hiện nay đem lại.
Công ước có một quan điểm rộng về di sản phi vật thể: nó là ‘những thực hành, diễn giải, biểu đạt, kiến thức, kỹ năng - cũng như những công cụ, hiện vật, đồ tạo tác và không gian văn hóa liên quan với chúng - mà các cộng đồng, nhóm người, và trong một số trường hợp là những cá nhân, nhìn nhận là một phần trong di sản văn hóa của họ’. Câu cuối cùng đặc biệt quan trọng: đó là chỉ bản thân cộng đồng mới có thể quyết định cái gì là (hoặc không là) một phần trong di sản của họ - không một nhà nghiên cứu, chuyên gia hay cán bộ nào có thể làm thay họ. Một nguyên tắc cơ bản của Công ước là không thứ bậc nào có thể được đặt ra để phân biệt di sản phi vật thể của cộng đồng này là tốt hơn, giá trị hơn, quan trọng hơn hoặc hay hơn so với di sản của bất kỳ cộng đồng nào khác. Đối với mọi cộng đồng hay nhóm người, mỗi thành tố trong di sản phi vật thể của họ có giá trị không thể cân đo hay so sánh với những thành tố trong di sản của những cộng đồng khác: mỗi thành tố có giá trị như nhau, ở trong và của chính bản thân nó, đối với các cộng đồng, nhóm người hay những cá nhân nhìn nhận nó là một phần trong di sản của họ. (2)
Thêm vào đó, Công ước quan niệm di sản phi vật thể là một hiện tượng luon được sáng tạo và tái tạo, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác hoặc chia sẻ từ cộng đồng này sang cộng đồng khác. Theo ngôn từ của Công ước, nó ‘không ngừng được cộng đồng và nhóm người tái tạo trong sự thích ứng với môi trường, tự nhiên và lịch sử của họ’. Điều này có nghĩa rằng di sản phi vật thể, theo quan niệm trong Công ước, phải luôn là di sản sống: nó phải tiếp tục được tích cực sáng tạo, duy trì, tái tạo và bảo vệ bởi sự quan tâm của cộng đồng, nhóm người hay những cá nhân, hoặc đơn giản nó không còn là một di sản. Là một hiện tượng sống, di sản phi vật thể bắt nguồn từ quá khứ và thường gợi về quá khứ, nhưng nó luôn quen thuộc trong hiện tại và tương lai. Di sản phi vật thể không sống trong lưu trữ hay bảo tàng, thư viện hay công trình tưởng niệm: trái lại, nó chỉ sống trong tinh thần và thể xác con người. (3)
Công ước nêu rõ rằng ‘mục đích của Công ước này, quan tâm duy nhất là để di sản văn hóa phi vật thể phù hợp […] với những yêu cầu của […] phát triển bền vững’, nêu lên khái niệm phát triển của nhân loại là ‘đạt được nhu câu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đạt được nhu cầu của các thế hệ tương lai’, như Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển đã định nghĩa năm 1983. Trong các công cụ của Unesco đóng góp cho phát triển bền vững, Công ước Di sản phi vật thể là một trong những công cụ mạnh nhất, dù cho nhiều khả năng của nó vẫn chưa được nhận thức đầy đủ.
Chúng ta biết rằng kiến thức y học truyền thống là nền tảng cho sự tồn tại của con người ở mọi quốc gia, ví dụ như châm cứu tại Trung Quốc. Chúng ta biết rằng hệ thống kiến thức về tự nhiên và thế giới, ví dụ như thực hành luật tục để điều hành thủy lợi và chống lụt tại Tây Ban Nha, sẽ ngày càng cần thiết tại nhiều khu vực dưới ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Chúng ta biết rằng nghề thủ công có thể cung cấp thu thập phụ tạo nên sự khác biệt giữa no bụng đi ngủ với đói bụng đi ngủ, hoặc có thể mua một đôi dép để đứa trẻ có thể đến trường. Chúng ta biết rằng tại Tứ Xuyên, ta đã chứng kiến tận mắt nghi lễ truyền thống và lễ hội đã giúp cho cộng đồng vượt qua thiên tai như thế nào. Theo tinh thần của Công ước, chúng ta cần thảo luận về đóng góp của di sản phi vật thể đối với phát triển bền vững. Di sản phi vật thể luôn thay đổi, tiếp tục được tái tạo dưới những hình thức khác biệt chút ít, và trong một số trường hợp, cộng đồng có thể quyết định để cho biểu đạt phi vật thể phải chết nếu chúng không phù hợp với hoàn cảnh hiện thời.
Tuy nhiên ‘bảo vệ’ (Safeguarding) là mục đích chính của Công ước. Không phải là không cần thiết khi nhấn mạnh điều này, bởi sự áp dụng đã bộc lộ một số hiểu nhầm về khía cạnh này. ‘Bảo vệ’ có nghĩa là gì khi chúng ta nói về một si sản sống? Theo điều 2.3 của Công ước, ‘bảo vệ’ có nghĩa là tạo nên sức sống lâu dài của di sản phi vật thể trong cộng đồng và nhóm người. Định nghĩa, tư liệu hóa, nghiên cứu, bảo tồn, phát huy, củng cố, truyền dạy thông qua giáo dục chính thức và không chính thức, cũng như tiếp sức cho các mặt khác nhau của di sản, tất cả đều nằm trong nội hàm của ‘bảo vệ’ theo điều trên. Tuy nhiên, tôi phải nhấn mạnh rằng mọi công việc trên là hoạt động bảo vệ khi, và chỉ khi, chúng ‘nhằm tạo nên sức sống của di sản văn hóa phi vật thể’, như Công ước đã xác định. Tư liệu hóa vì nhu cầu bản thân, hoặc đơn giản là ghi lại điều gì đó trước khi nó biến mất, không phải là bảo vệ; nghiên cứu để thỏa mãn ham muốn hiểu biết của nhà khoa học không phải là bảo vệ cho tới khi nó đóng góp trực tiếp vào việc tăng cường sức sống của di sản. Bảo tồn về pháp lý - dù đó là luật sở hữu trí tuệ, luật bảo tồn không gian văn hóa, hay luật bảo tồn quyền của cộng đống trong việc thực hành di sản - chỉ là bảo vệ khi chúng giúp tạo nên sức sống của di sản. Lưu trữ tối tân nhất, cơ sở dữ liệu lớn nhất, hoặc luật sở hữu trí tuệ chi tiết nhất chỉ có thể được coi là bảo vệ khi có thể chứng minh được rằng chúng giúp cho việc thực hành và truyền dạy di sản trong tương lai…
Đức Hạnh dịch
Chú thích:
(1) Việt Nam đã phê chuẩn Công ước vào ngày 20/9/2005. Việt Nam hiện có bốn di sản được Unesco đưa vào Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là Nhã nhạc cung đình (2003), Không gian văn hóa cồng chiêng (2005), Dân ca quan họ Bắc Ninh (2009), hội Gióng ở Phù Đổng và Sóc Sơn (2010) và một di sản trong Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp là hát Ca trù (2009).
(2) Mỗi quốc gia, tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thường có những cách phân loại riêng. Ví dụ Việt Nam hiện công nhận di sản theo ba cấp: tỉnh, quốc gia và quốc gia đặc biệt.
(3) Một số nhà nghiên cứu theo quan điểm siêu hình (metaphysics) chú trọng đến việc bảo tồn cái ‘gốc’ của di sản, trái với quan điểm của Unesco về sự ‘sống’ của di sản phi vật thể.








