Bài thơ chữ Hán “Nhìn thấy linh cữu Quang Trung” mới tìm thấy
Đầu năm 2005, khi thực hiện đề tài khoa học “Khảo sát, sưu tầm và biên dịch những di sản văn hoá Hán Nôm hiện còn ở Thanh Hoá”, do Liên hiệp Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam giao, Ban dịch thuật Hán Nôm chúng tôi có nhận được tập tư liệu, đề là Liên Khê Nam hành tạp vịnh gồm trên 200 bài thơ, văn của Lê Triệu, do hai người cháu ông sưu tầm, chép lại sáu năm sau khi ông mất. Đây đúng là những trước tác thơ, văn của Lê Triệu, được chia làm 2 quyển. Quyển thứ nhất Liên Khê di tập, gồm khoảng 160 bìa thơ, văn ông làm để tặng người quen, hầu hết là các nhà khoa bảng, quan lại đương thời. Ví như: Tặng Thạch Khê cử nhân, Phụ vãn sinh Cẩm Phong Nguyễn Trị nhất thủ, Tiễn Nghi Xuân Bố chính phó công chi Nam Định Bố chính… Một số khoảng 70 bài thơ, văn là cảm tác của ông khi đến tham quan các danh lam, thắng cảnh như: “Lục Niên thành”, “Bố Chính châu”, “Hoá Châu Trường Sa sơn ký”… Những thắng cảnh Lê Triệu mô tả đều nằm về phía Nam quê ông, vì thế thấy ghi là Nam thành tạp vịnh.
Sau đây chúng tôi xin dịch giới thiệu lời đề tựa cuốn sách trên, ở trang đầu quyển I Liên Khê di tập:
“Ôi! Đây là di tập của tiên sinh Liên Khê mà hàng ngày tiên sinh ngâm vịnh. Tiên sinh họ Lê, tên là Ôn Phủ, người thôn Thụy Liên, xã Đại Trung, huyện Hoằng Hoá. Tiên sinh ở trước một cái hồ có nhiều sen, nên lấy hiệu là “Liên Khê”. Văn chương của tiên sinh xuất khẩu thành thơ, thơ tuôn ra một cách tự nhiên, chưa từng sai ý. Những bài vịnh thơ rất nhiều nhưng ngâm xong là quên luôn, tiên sinh chẳng bao giờ chú ý ghi chép lại. Tôi cùng người em con ông chú và cả học trò của tiên sinh, đều thấy thế, song cũng không ai ghi chép.
Những năm về cuối đời, tính tiên sinh lại thích uống rượu. Người có công việc thường đến xin tiên sinh viết bi chí, văn tế, câu đối… Tiên sinh liền tới ngay, ngồi trò chuyện và xuất khẩu là văn chương tuôn ra như suối chảy, không hề ngắt. Họ xem, chép và sao viết lại, còn tiên sinh thì quên ngay. Chỗ nào quên lại đưa ra câu khác thay vào, phút chốc lại thay, rồi tiên sinh cho họ được sử dụng, còn mình chẳng bao giờ ghi chép lại! Có lẽ là tiên sinh không để ý gì trong việc trước thuật, cả trong ngâm vịnh cũng vậy.
Triều vua Thiệu Trị năm thứ sáu (1846) tiên sinh mất ở tuổi 76. Tiếc thay văn chương của phu tử có tên tuổi trong đời, mà con cháu không ghi chép gì để làm gia bản! Chúng tôi là hậu duệ của tiên sinh lại không ân hận hay sao?
Vậy tôi là Quang cùng với em Đỉnh - con người chú - đã ra sức tìm tòi trong những di thảo, hoặc trong những tạp biên của môn sinh, để biên chép lại. Những thu hoạch được biên thành tập, mười phần cũng chỉ mới được một hai. Cho nên đặt nhan đề là: “Di tập”. Còn về thời gian thứ tự trước sau cũng chưa khảo cứu được. Việc truyền tả chắc còn thiếu sót, chưa dám đính chính. Còn tập “Nam hành tạp vịnh” tuy là thủ bút của tiên sinh, song nguyên bản sau này bị thất lạc, cho nên cũng có chỗ còn khiếm khuyết, chưa rõ.
Tôi tạm ghi lại những gì còn ghi chép được cho hậu duệ về sau, nên viết bài tựa này!
Triều vua Tự Đức thứ 5, năm Nhâm Tý (1852), mùa xuân, tháng 2, cháu nội là Quang, kính tựa”.
Trước đây, chúng ta chỉ được biết tiểu sử, hành trạng và biệt tài thơ, văn của Lê Triệu qua những câu chuyện có tính chất giai thoại dân gian. Nay nhờ cuốn Liên Khê Nam hành tạp vịnhmới phát hiện, đã giúp chúng ta biết chắc chắn danh nho Ôn Phủ sinh năm 1771 và mất năm 1846, cũng như một số trước tác của ông. Đặc biệt trong số những bài thơ của Lê Triệu nói trên, có bài “Kiến Quang Trung linh cữu” (Thấy linh cữu vua Quang Trung), chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc.
Bài thơ viết bằng chữ Hán (xem bản chụp). Phiên âm như sau:
![]()
Trấp niên sất sá tẩu phong vân Như thử anh hùng cổ hãn văn Hàm Dã độc Lưu thiên vạn cốt “Khuân Sơn” hoạ tại bách niên phần Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận Cô phụ đường đường bát xích thân Quang cảnh nhất ban thành phấn mị Linh nhân chung cổ tiểu Doanh Tần! Dịch nghĩa: Nhìn thấy linh cữu vua Quang Trung Hai mươi năm tiếng thét át cả gió mây (2) Chỉ chừng ấy cũng đủ thấy là bậc anh hùng hiếm có! Trên chiến trường Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác thù “Núi Khuân” (3) không ngờ lại để mối hoạ liên lụy đến phần mộ nơi yên giấc ngàn năm Bỗng phải chịu sự chỉ trích của mối hận muôn đời Nỡ phụ đến tấm thân tám thước của bậc anh hùng Quang cảnh nói chung tất cả đã trở thành cát bụi Khiến cho người đời muôn thuở cười Tần Doanh bạo chúa. Dịch thơ: Nhìn thấy linh cữu Quang Trung Bao năm thét mắng át phong vân Đủ thấy anh hùng - bậc vĩ nhân Hàm Dã hận vùi muôn vạn xác “Khuân Sơn” phần mộ hoạ trăm năm Ngậm hờn chỉ trích ngàn thu hận Nỡ phụ đường đường tám thước thân Quang cảnh thảy đều thành cát bụi Khiến đời muôn thuở cợt Doanh Tần! ( Hồng Phi phiên âm và dịch) Như chúng ta đều biết, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua (1802) và đã tiến hành cuộc trả thù tàn bạo. Chẳng những tất cả ba họ nhà Tây Sơn và các thuộc hạ thân tín đều bị giết bằng những hình thức man rợ nhất, mà còn khai quật thi hài những người đã khuất, giã xương, lấy hộp sọ cùm giam…, trong đó có vị anh hùng dân tộc Quang Trung. Nơi đặt lăng mộ của Quang Trung cũng bị san phẳng, không cho để lại dấu tích, nên sau này có một số nhà nghiên cứu đã dày công tra cứu, khảo sát, tìm tòi song không thể xác định được mộ vua Quang Trung ở địa điểm nào (4). Bởi thế, bài thơ “Nhìn thấy linh cữu Quang Trung” của Lê Triệu mới được phát hiện, quả có giá trị về nhiều mặt. Trước hết, ông là một nho sĩ công khai sáng tác thơ cho biết mình đã đến nơi lăng mộ của Quang Trung, chỉ sau mấy năm bị Gia Long khai quật, hình dung như thấy linh cữu và cả tiếng thét của người anh hùng áo vải ở Bân Sơn trong lễ tuyên thệ lên ngôi vua để kéo quân ra Bắc tiêu diệt giặc Thanh xâm lược năm 1788, ca ngợi Quang Trung là người anh hùng và lên án Gia Long tàn bạo như Doanh Tần (Tần Thuỷ Hoàng) bên Trung Quốc. Qua bài thơ, Lê Triệu còn cho biết, tính từ năm Nguyễn Huệ lên ngôi vua đến khi tác giả tới thăm nơi đặt linh cữu của ông chỉ mới 20 năm ( Trấp niên sất sá tẩu phong vân), tức vào năm 1808, sau khi lăng mộ vị anh hùng bị khai quật mới có 6 năm, ấy thế mà tất cả nơi đây đã không còn dấu tích ( Quang cảnh nhất ban thành phấn mị). Bởi thế, sau này đến thế hệ chúng ta không thể biết lăng mộ vua Quang Trung ở nơi nào thì cũng là điều dễ hiểu thôi. Thiết nghĩ lâu này đã có nhiều bài nghiên cứu, hội thảo khoa học bàn về vị trí lăng mộ Quang Trung, nhưng hầu như vẫn chưa có lời giải đáp. Mới đây trong quá trình thực hiện đề tài khoa học “Khảo sát và biên dịch những di sản văn hoá Hán Nôm hiện còn ở Thanh Hoá”, chúng tôi đã phát hiện được bài thơ này của nhà nho Lê Triệu. Nội dung bài thơ cho biết trong chuyến Nam hành. Lê Triệu đã đến thăm phần mộ Quang Trung, như vậy ông là người biết rõ vị trí lăng Quang Trung ở một ngọn núi có tên là “Khuân Sơn”. Trong nguyên bản “Khuân” là một chữ Nôm, rất ít dùng, viết theo tên gọi của địa phương. Chúng tôi tạm dịch như vậy và rất mong các bậc thức giả chỉ vẽ thêm. Nếu đọc đúng tên ngọn núi và tiến hành khảo sát thì hy vọng có khả năng tìm thấy nơi vị anh hùng dân tộc yên nghỉ trước khi mộ phần bị tàn phá, qua lời mô tả cả một nhà nho sống gần như cùng thời. ______________ 1. Lãng Nhân - Giai thoại làng nho, NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr. 599-603. Lê Văn Đình - Văn học yêu nước Thanh Hoá nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sở GD-ĐT Thanh Hoá, 1992, tr 225-231. Ninh Viết Giao (chủ biên) - Địa chí văn hoá Hoằng Hoá. NXB KHXH, Hà Nội, 2000, tr 275-279. 2. Cuối năm 1788, Nguyễn Huệ lập đàn ở núi Bân (Huế), lên ngôi hoàng đế, thét mắng (sất sá) quân xâm lược Thanh, rồi kéo binh ra Bắc tiêu diệt chúng. Tại ngôi đền thờ Quang Trung ở Làng Do Xuyên, xã Hải Thanh, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá cũng có đôi câu đối: Anh hùng thanh sất Bân Sơn cổ Miếu mạo quang lưu Bạng Hải kim. (Tiếng thét mắng (quân giặc) của người anh hùng ở núi Bân còn rực sáng để lại ở đền Lạch Bạng ngày nay). 3. Khuân Sơn, theo sách Đại Nam nhất thống chícủa Quốc sử quán triều Nguyễn, tập I (NXB Thuận Hoá, Huế 1992) chép: “Núi Khuân Sơn ở phía nam huyện Phong Điền, có tên nữa là Thương Sơn, vì hình núi tròn như vựa thóc, thượng lưu sông Phong Điền chảy về phía Tây, có một con đường theo ven núi chạy về phía Bắc, đi theo về phía Tây có thể đến đất người Man Thượng” (tr. 133). 4. Phan Thuận An, Mai Khắc Ứng - Đi tìm di tích Tây Sơn tại Huế- Nguyễn Huệ Phú Xuân. NXB Thuận Hoá - Huế 1986, tr 128-135. Nguồn: Xưa & Nay, số 245, 10/2005, tr 6-8 |