Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 20/03/2013 23:35 (GMT+7)

Ảnh hưởng của Kim Định đối với các học giả trước kia và hiện nay

Về “huyền sử gia” Kim Định “huyền sử học” Việt Nam

Các biến động mới cùng sự thất bại không thúnhận của việc nối kết thành quả khảo cổ họcvới thời Hùng Vương ở miền Bắc, khiến cho vấn đề lại buông thả cho cảm tính, cho những khẩu hiệu phục vụ chính trị cấp thời của sử học...

Tâm nguyện kéo dài quá khứ và sự cạn kiệt tài liệuđi theo với khủng hoảng “đổi mới” lúng túng khiếnta thấy vấn đề Hùng Vương chuyển sang hình thức giả khoa học mà ta gọi là “sự mê tín trống đồng”, vốn cũng chỉ là sự phát triển tín điều cũ của ngôn từ mới trong đó, lạ lùng thay, bóng dáng ông Kim Định huênh hoang lại ảnh hưởng đến một vài học giả phía Bắc và lớp người trẻ tuổi hơn. Người mở đầu cho các tác giả miền Bắc Việt Nam bắt chước Kim Định có lẽ là ông Nguyễn Khánh Toàn. Thời kỳ sau chiến tranh biên giới Trung Việt 1979, ôngchođăng trên một sốKhảocổ học,1980, rằng trong một quyển sách (có dáng võ hiệp) tênVô đỉnh nguyên vươngcủa Kim Dụng (không phải Kim Dung), tác giả Trung Quốc đó công nhậnngười Tàu đã lấyLạc thưcủa Việt làm của mình.Người bên ngoài có thể lấy làm lạ rằng tại sao một luận cứ với bằng chứng khinh thường thiên hạ như thế kia lại xảy ra ở một cơ quan nghiên cứu chuyên ngành mang tính quốc tế không thể bỡn cợt được.

Sự hấp dẫn của Kim Định cũng còn thấy hơi hám ở những chức sắc khác của ngành khảo cổ học vào thời kì Đổi mới. Có điều không chắc người ta đã thấy ra hậu quả trầm trọng cho tình hình nghiên cứu chung. Chuyên viên nói bừa cũng được coi là tỏ lời nghiêm túc, miễn là cứ nhân danh lí tưởng cao cả. Nghĩa là người ta đã để đánh đồng các công trình tìm tòi quanhững chuẩn mực nghiêm túc của khoa học với cácsuy luận lăng nhăng của tay ngang. Sự hiểu biết về sử Việt vốn đã bị ràng buộc vào các chuyện kể, các lời bàn sử để có người tưởng hễ “biết được chữ là viết được sử’, thế mà các chuyên viên đã không làm bức tường ngăn chặn cho khu vực chuyên môn yếu ớt củamình, không giữ được sự trọng nể cho chuyên môn, lại mở đường cho các kẻ hóng chuyện, chộp được bất cứ câu, chữ “dữ dằn” nào là tung ra hù dọa luận thuyết rối mù. Trong trường hợp của ngành khảo cổ học này là sự phát triển của những luận thuyết hậu - Kim Định, vượt - Kim Định, có các ông mở lối, chấp nhận ngang hàng.

Trong quyểnCơ sở văn hóa Việt Nam(bản 1998), ông Trần Ngọc Thêm, “Chủ tịch Hội đồng Ngữ học và Việt Nam học cho Khối Đại học ngoại ngữ của Bộ Giáo dục và Đào tạo và chủ trì xây dựng chương trình môn Cơ sở văn hóa Việt Nam từ 1990” (theo lời tự giới thiệu), đã phân biệt sự đối kháng của văn minh du mục (Tây Âu và Trung Hoa) với văn minh nông nghiệp Đông Nam Á (phía bắc đến tận sông Dương Tử) “một trong những cái nôi hình thành loài người”, trong đó “Việt Nam là nơi hội tụ ở mức độ đầy đủ nhất đặc trưng của văn hóa khu vực”, còn lưu lại ôngThầnNông và câu chuyện Hồng Bàng ThịLĩnh Nam chích quái(LNCQ). “Văn hóa nhận thức” (của Việt Nam) cũng là lý thuyết Âm dương (có cặp đôi Tiên Rồng, vuông tròn...), Ngũ hành, Hà đồ Lạc thư với các giảng giải lý số 3, 5, 9, “nhất điểu nhì xà tam ngư tứ tượng”... đổi xoay quanh với ông Kim Định (1).

Gần nhất là một tác giả trẻ, tuy có gộp thêm cáctruyệnTrương Chi, MịNương, Thạch Sanh...trongtập luận thuyết của mình nhưng vẫn mang đầy rẫy dấu vết Kim Định khi căn cứ trên quyển LNCQ để biện luận về một “xã hội Văn Lang thời các vua Hùng có một nền văn minh đạt đên đỉnh cao của nền văn minh nhân loại thời cổ đại với một lãnh thổ rộng lớn,bắc giáp Động Đình Hồ, tây giáp Ba Thục, nam giáp Hồ Tôn, đông giáp Đông Hải”, có chứng minh bằng các đồ họa về âm dương ngũ hành, Hà đồ Lạc thư, Dịch, lý số... cùng với ca dao tục ngữ, văn chương kim cổ (2).

Sử gia được đào tạo theo tinh thần gọi là mácxít, cộng thêm tính cách từ chương xưa cũ, nay vẫn không thể thoát ra được, và từ đó nổi lên sự co rút theo tinh thần dân tộc của ca dao tục ngữ rất buồn cười. Trong những năm sau “Đổi mới”, ông Trần Quốc Vượng thường đưa ra những giải thích ẩn tàng tính định mệnh cho những địa điểm lịch sử, những vùng địa lý Việt Nam, phát biểu theo một thứ ngôn ngữ phong thủy tân biên, kèm với các đồ hình bí hiểm - “sáng tạo” đó cũng được các nhà nghiên cứu đàn em tán thưởng, đem ra ứng dụng trong các bài viết của mình. Chắc vĩ lẽ đó mà ta thấy xuất hiện qua truyền thông những dấu hiệu phong thủy trong cả việc điều hành thủ đô Hà Nội, nơi “hổ cuộn rồng nằm...” thể hiện trong một số bài diễn văn của các vị lãnh đạo Nhà nước.

Ngày trước tuy là giáo điều nhưng chủ nghĩa giai cấp còn mở đường vào thế giới, vào tương lai, nay thì “trở về nguồn” lại phát sinh những luận cứ chẳng cógì gọi là khoa học cả, chưa kể là phản cả lý trí bình thường. Cách giải thích quá khứ đầy tinh thần “nhiễu điều phủ lấy giá gương...”, đầy mong ước hiện tại... khiến cho sử gia thấy “tổ tiên nguyên thủy của chúng ta” tồn tại đến hàng chục vạn năm theo núi Đọ, Thẩm Khuyên..., với chuỗi văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn tiếpđến văn hóa Phùng Nguyên... Đông Sơn, “tiến bướctrên con đường cải tạo thiên nhiêncải tạo mình”qua “bước văn minh nông nghiệp cách đây một vạn năm... đến hợp kim đồng thau cách đây khoảng bốn ngàn năm” làm nên “kì tích... tạo tiền đề cho sự tồn tại một thời đại Hùng Vương rực rỡ...” (3). Các tác giả trên còn ngại ngùng núp lén sau các dòng chữ, nhưng PGS. Nguyễn Cảnh Minh thì nói thẳng ra một thời dựng nước liên tục vĩ đại:“Sau hàng chục vạn năm(chúng tôi nhấn mạnh) gian khổ và sáng tạo, từ những công cụ bằng đá cũ thô sơ tiến đến sự phát minh ra kỹthuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước, dùngcày có sức kéo là trâu bò; đời sống vật chất và tinhthầnngười nguyên thủy Việt Nam(nhấn mạnh) ngày càng được nâng cao, từng bước làm thay đổi bộ mặt xã hội, đưa đến hình thành một lãnh thổ chung, một nền văn hóa, văn minh chung và một tổ chức chính trị, xãhội chung, đó là quốc gia và nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, đánh dấu mộtbước chuyển cơ bản trong lịch sử xã hội Việt Nam, mở ra một thời đại mới - thời đại dựng nước”. Bùi Thiết, đứng đầu một phe “ly khai”trong nước cũng không nói khác để cho Nxb. Thanh Niên in sách của ông (2000) mở đầu Lời giới thiệu: “Nước Việt Nam có lịch sử đã mấy chục vạn năm trước, kể từ khi xuất hiện xã hội Người đầu tiên trên lãnh thổ đất nước”.

Họ đã vượt xa thời vua Hùng của Ngô Sĩ Liên và thời trống đồng Đông Sơn của người mới vừa ở thế hệ trước và còn sống quanh đâu đó... Tâm trí còn co hẹp trong viễn tượng thế giới mở rộng, thế giới toàn cầu hóa, nên càng phải bù đắp lại bằng sự hoang tưởng. Điều đó cũng thấy ở nhóm người di tản trong hoàn cảnh bị xô đẩy vào giữa thế giới quay cuồng mà mình thì co lại trong “cộng đồng” riêng biệt, nhưng không tránh được, cũng phải tiếp nhận thành quả của thế giới đó, để cho hỗn loạn của “truyền thống” càng gia tăng.

Muốn xét đến ảnh hưởng của Kim Định ở hải ngoại, nhất là ở Mỹ, nơi tập trung đông đúc số người tị nạn nhất, thì không thể bỏ qua tính chất tị nạn của người Việt nói chung. Đầu tiên phải nói đến là tính chất di cư hàng loạt với số lượng lớn người Việt ra nước ngoài, chưa có tiền lệ. Sự hỗn loạn trong sinh hoạt tạinước ngoài là do hoàn cảnh ra đi theo từng đợt, ảnh hưởng đến tâm tư, suy nghĩ (người đi trước và ngay sau ngày 30-4-1975, “bán chính thức”, vượt biên, HO), do nguồn nhân sự phức tạp (dân di cư 1954, dân gốc miền Nam trước đó, người Hoa của “bán chính thức” và người Việt luồn vào, người thuộc các tôn giáo phồn tạpcủa Việt Nam Cộng hòa). Cộng đồng di tản nào thì, ít ra trong thế hệ đầu, củng sống bên lề nước tiếp nhận, trong một chừng mực nào, nếu được khoan dung chấp nhận, vẫn phải mang tính chất bên lề không tránh khỏi đó. Tình trạng này càng không tránh khỏi đối với người lớn tuổi, dù đã mang quốc tịch nơi ở mới. Họ vẫn mang trong mình tâm hồn nơi cũ, có cố gắng thì khai thác thêm kiến thức theo sách vở mới nhưng vẫn trên căn bản cũ. Ớ một xứ mà sự tự do tư tưởng trở thành bình thường, phương tiện bày tỏ tương đối thoải mái, lại giữa một số người cũng lạc lõng như nhau, không có một sự kìm thúc dư luận chặt chẽ, người ta tha hồ “nói”, có khi đến quá đà loạn xạ, và điều đó đã xảy ra cả với những người trí thức có danh vọng trước kia. Ông Kim Định có điều kiện thuận tiện hơn, nên đã khai thác các thuận lợi cũ trong đà có “quần chúng” to rộng hơn.

Với người bật gốc ra khỏi xứ sở thì tôn giáo cũng là một cơ sở cần phải bám víu, một thứ tôn giáo mang căn bản cũ và những hình thức của tình thế thúc đẩy tham vọng mới. Ông Trần Văn Trường, “người xưngvua” thuộc phái đạo Vô Vi, quảng cáo đăng đàn diễn thuyết (23-12-1997) “Nước Việt Nam cần có vua (một đấng Minh vương)... để khai trí mở huệ cho hai người anh em (Quốc gia và Cộng sản) thức tỉnh..”, rồi xoay chiều, làm náo loạn phố Bolsa (Orange County, California) hồi đầu 1999, khiến báoRegisterđịa phương phải coi là sự kiện về cộng đồng nổi bật nhất trong năm. Thanh Hải Vô Thượng Sư, cô bé học sinh trường Bồ Đề xã nhỏ năm nào, có quần chúng đồng chủng và sự yểm trợ bên ngoài trong tinh thần đồng văn hợp với thời đại truyền thông, đã có “tông đồ” về tận trong nước, và còn muốn lan qua khu vực quốc tế với toan tính thu phục tín đồ người Mễ vùng Nam California, làm run sợ cả một số người Công giáo Việt yếu bóng vía. Ông Kim Định có một tập họp quần chúng đảng phái Duy dân như đã nói, và những người chịu ảnh hưởng từ trong nước, nay hoặc tách riêng làm những nghiên cứu Hùng Việt khác, hoặc theo ông, tập họp trong hội An Việt có hơi hướng tôn giáo cổ truyền và những giải thưởng dự tính, theo ông, như một loại Nobel mới.

Ngày trước, khi còn ở trong nước, ông cũng đã bị người ta chỉ trích là có tinh thần “ái quốc quá khích”, viết “lơ mơ” khiến cho “người Tàu không thèm cãi lại mà chỉ cười, cười khinh”... Ông nói không dám đem vào dạy trong Đại học mà thú nhận là “chỉ nói phớt qua, và là những lúc giải trí”, nhưng sự thôi thúc làm người “lập thuyết” - triết lý An vi, nhân chủ, khiến ông viết sách thật nhiều, không chừa cả việc quảng bá trong học đường, rồi gượng gạo lúng túng bào chữa hay cố lấy chứng cớ uyên thâm để chống đõ (4). Nay thì ở ngoại quốc, sự vướng víu trách nhiệm không còn nữa, ông tha hồ quảng diễn như một giáo chủ.

Tham vọng giáo chủ của ông tỏ ra trong việc tập trung bài cũ, viết lại trên tư tưởng cũ, khai thác những hiểu biết mới, sắp xếp thành 5 bộ sách mà ông đặt tên làNgũ Kinh khải triết (Ngũ điển),ý muốn thay thếNgũKinhcủa Khổng Nho xưa. Năm bộ đó làKinhHùng, Sứ Điệp“có thể coi là đã cố định” và ba quyển “đang hìnhthành...ở vào thời kì dự tuyển”:KinhNgữ“tập trung tục ngữ ca dao”,Kinh Lạc/Nhạc“do các nhạc sĩ điều động”,Kinh Dịch“thay đổi thêm bớt từ quyểnDịch Kính linh thể”.Dự tính là thế nhưng thực tế ngay sau những lời này, ông đã giới thiệu một bộNgũ Kinhkhác:Hưng Việt sử ca(thật ra tên sáchnăm 1986 có quảng cáo này chỉ làHưng Việt), Kinh Hùng khải triết(triết lý về“Kinh Hùng” Lĩnh Namchíchquái,cũng lược thuật15truyệntrongđó),Photượng đẹp nhất của Việt tộc(bàn về Việt nho, Việt tộc),Sứ điệp trống đồng, Văn Lang vũ bộ(từ hình nhảy múa trên trống đồng, bàn lan man về triết lý của Việt tộc) (5).

Bị đẩy ra khỏi nước, Kim Định tức giận, căm thù người Cộng sản nhưng cũng có dịp biết đến các phát hiện khảo cổ học miền Bắc nhiều hơn. Có trống đồng với các hình vẽ, giải thích theo hướng tục phồn thực, có con dao núi Nưa, có rìu mũi cong... Ông cũng biết thêm về khảo cổ học Trung Quốc. Do đó ông có nhiều dữ kiện để đưa vào sách, minh chứng cho lý thuyết huyền sử của ông. Càng lúc ông càng thấy mình nói đúng. Các nền văn hóa Ngưỡng Thiều, Long Sơn chỉ có 6đến7.000nămcòn Hòa Bình đã “có gạo” (?) thì tới 8000 năm. Hơn nữa, Long Sơn thuộc ngành Rồng, Ngưỡng Thiều thuộc ngành Tiên, cả hai phải quy tụ vào Việt Nam mới đúng! Có cái giếng tùy táng đào được ở Bắc Ninh thì có thể liên hệ chứng minh được Việt tỉnh (giếng Việt) không cần biết đến ý kiến của Lê Quý Đôn. “Trống Việt phong phú vô kể, có thể viết về trống Việt mãi mãi không hết”. Ví dụ, nhìn mặt trống có hình chim, hình người mang lông chim, đúng là nói về Tiên (bay), còn tang trống có hình chim lao vào miệng rắn - theo ông Nguyễn Từ Chi của miền Bắc, đến với Kim Định trở thành Rồng, đúng là chuyện Âu Cơ - Lạc Long Quân. Vô số các bằng chứng mới cho thấy Khổng Tử rất thành thật khi nói ông “thuật nhi bất tác”, ông chỉ “thuật” chuyện cũ của Việt, vì Khổng Tử theo Nghiêu Thuấn (sáchTrung Dung)mà Thuấn là Đông Di, tức là Việt, như ông Kim Định nối kết điều Lê Văn Hưu đã chỉ ra một lần (8). Đến đây ta có thể thấy sự rối loạn tâm trí của một tầng lớp trí thức di tản đã lên đến tột độ, và cũng hiểu ra sự rẽ hướng đồng dạng ở những “tác phẩm” nghiên cứu thời cổ sử Việt khác.

Sách báo văn học, nghiên cứu của người Việt di tản ở Bắc Mỹ, nhìn qua thì như một hiện tượng bất thường. Giá sách đắt ngay cả đối với tiêu chuẩn Mỹ huống là với mức sống của người Việt. Với giá tiền ấy, sách không thể nào len vào trong nước được, kể cả khi qua khỏi sự ngăn cấm chính trị. Vậy mà sách vẫn in ra, chỉ vì sách xuất hiện phần lớn là do nhucầu của người viết hơn là nhu cầu của người đọc. Nói “phần lớn” là vì vẫn có sách bán được theo nhu cầu tôn giáo (quần chủng đọc tiếng Việt còn đông ở lĩnh vực này), theo tình thế ngăn cấm trong nước khiến bản thảo đi ra ngoài gợi ý tò mò. “Phần lớn” sách tiếng Việt vẫn xuất bản vì nhu cầu thể hiện của tác giả màsựinấn không tốn kém gì lắm so với sức chịu đựngcủa chủ nhân, so với sự thôi thúc của nhu cầu kia. Thế là sách vở của họ gặp được những đồng điệu của những lý luận bốc đồng trong nước, cùng một căn cơ âm dương ngũ hành, Dịch lý số... với cái khác là sách trong nước có phần “dân tộc” hơn, còn bên ngoài thì tuy không rời bỏ “dân tộc” nhưng thêm dáng vẻ quốc tế liều lĩnh hơn với các nguồn chứng dẫn, triết thuyết thế giới, nguồn thông tin kỹ thuật, nhân văn rộng, mới hơn. Cái uy tín “nước ngoài” của những người “không quên Tổ quốc” này lại là căn cứ cho người bên trong bắt chước theo, nhận là kẻ đồng điệu, đồng đạo!

Có vẻ những đồ đệ trực tiếp của Kim Định xuất hiện mới nhất là nhóm Đạo sống Việt (7). Cũng thoáng một triết lý chính trị vướng víu từ xưa qua từ “nhân chủ”. Cũng những chuyện Bánh giầy bánh chưng, Gậy thần sách ước..., vẫn các chứng dẫn khảo cổ học bộp chộp lấy từ những người không hiểu vấn đề. Cũng triết lý Rồng Tiên, nhưng bạo gan đi vào huyền sử vớichuyện “Tổ chức bí mật núi Tản sông Cái” giúp HaiBà Trưng. Tuy nhiên từ loại triết lý An vi ra ngoài nước mang tinh thần hồi cố hơn với tên An Việt của nhà xuất bản, đến đây lại trở thành một thứ tôn giáo dân tộc chống Cộng chống Tây, tách rời một ít khu vực Hán nho/Việt nho mà ông Thầy dễ thỏa hơp, để đi vào tinh thần “thiền” của Phật Giáo: “Trăm hay xoay vàolòng”.

Tác giả Nguyễn Xuân Quang là người vượt trội trong dáng vẻ khoa học với quyển sách bề thếKhaiquậtkhotàngcổ sửHùng Việt.Trong đó, ta cũng gặp những đề tài của Kim Định (Dịch lý số, số 9 ví dụ từ Hồng phạm cửu trù, chữ nòng nọc/khoa đẩu...), khai triển rộng ra (nòng nọc lan qua đề tài Thánh Gióng, An Dương Vương, chim bồ cắt muốn thay thế chim [?] Âu Cơ), và đi sâu hơn vào sự mê tín trống đồng:Giải đọc trống đồnglà tên một đề sách khác được tác giả giới thiệu. Lối giải thích tràn lan kiểu tên Tần Thủy Hoàng với chữ “thủy” có nghĩa là “nước” (chứ không phải là “khởi đầu”), Bành (Tổ) là (Hồng) Bàng, (Âu) Lạc là Lo (âm Pháp, Anh của “lạc”), là Lô Giang = Hồng Hà, Hồng (Bàng) là Hồng (Hà; Fleuve Rouge của Pháp ngữ)... vốn của Kim Định (9)lại cũng làm điểm khởi đầu cho tác giả Khai quật... kéo dài thành những phát hiện chưa ai dám nói, như vua Hùng vốn phải là Hừng vì trống đồng có dấu hiệu thờ mặt trời, màu đỏ, liên hệ đên tên nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương... Kim Định cho rằng “trống đồng chắc phải có từ lâu đời lắm, ít nhất là đời nhà Hạ, mà nhà Hạ với Việt tộc thì về văn hóa là một... Phải coi trống đồng như bản văn hóa Việt hay nhất”. Tuy nhiên, sự ưu việt của Việt tộc chỉ mói được ông chứng minh bằng cổ thư (Trung Quốc) và những lượm lặt khảo cổ học ngày nay.

Với Nguyễn Xuân Quang thì nhờ phát hiện L’annamite, mère des langues (Tiếng Việt, mẹ của các ngôn ngữ- một cuốn sách viết có tính chất bỡn cợt) của Đại tá Frey, người Pháp, vào cuối thế kỉ XIX (10), nhờ các từ điển điện tử đa ngữ bây giờ cho nên ưu thế tột đỉnh của tiếng Việt trở thành điều hiển nhiên và có thể giảng giải, suy đoán từ cổ thư, từ hình tượng trên trống đồng để phát hiện ra “kho tàng cổ sử’ Việt bị chôn vùi trong thời gian, chờ người “khai quật” lại... Theo đà “phát hiện” này, ông tuyên bố là đã có thể tìm ra câu tiếng Việt của lời chúa Giê-su lúc chịu đóng đinh(?!)n

Chú thích:

1. Trần Ngọc Thêm,Cơ sở văn hóa Việt Nam,Nhà xuất bản Giáo dục, 1998. Sách được tái bản 6 lần với độ dài ngắn khác nhau, từ bản thảo đầu tiên năm 1991.

2. Nguyễn Vũ Tuấn Anh,Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại,Nxb. Văn hóa Thông tin, 1999. Đáng chú ý là tác giả cố địa chỉ nơi một đền thờ Hùng Vương thuộc TP. Hồ Chí Minh: “Nghiêm từ cung Quốc tổ Lạc Hồng”. Có thể xem thêm: Đông Phong,Về nguồn văn hóa cổ truyền Việt Nam,Nxb. Mũi Cà Mau, 1997. Sách này cũng thấy được in lại ở Mỹ trong tình trạng èo uột về tiêu thụ chứng tỏ có sự đồng điệu vượt lên cả những tính toán về tài chính. Vừa qua (5-2001), được tiếp xúc với một Việt kiều về nước làm ăn trong việc kinh doanh sản phẩm văn hóa, nghe ông ta phát biểu về lý thuyết Kim Định (mà hẳn không biết tác giả này), chúng tôi nghĩ rằng sự tái phát triển lý thuyếtViệt nho đã thực sự lan ra thủ đô Hà Nội trong một phầngiới nghiên cứu.

3. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh,Lịch sử Việt Nam,tập I, 1983, tr.18, 70, 71.

4. Kim Định,Nguồn gốc văn hóa Việt Nam,Sài Gòn, Nguồn sáng xb., 1973, có phần phụ trương 5 bài chiếm đến gần nửa quyển sách.

5. Phụ trương cuối sáchVăn Lang vũ bộ,USA, H. T. Kenton, không năm xuất bản. Cũng thấy ở Pho tượng đẹp nhất của dân tộc, An Việt, không năm xuất bản nhưng bên trong có nhắc lần nói chuyện tại Đại hội Công giáo ở San Jose tháng 7- 1980; Hưng Việt, An Việt xb., 1986.

6.Pho tượng đẹp nhất của dân tộc,Sđd, tr.44, 45, 59, 62, 65.

7. Cũng là tên một quyển trong Tủ sách Việt Thường: Nhiều tác giả,Đạo sống Việt,USA, Ngày nay xb., 2000. Người trung thành hơn có lẽ là ông Nguyễn Minh Triết, đã dẫn từ tác phẩm của Kim Định ra các nghiên cứu của ông: “Sự tích Tiên Rồng và vòng Thái cực”,Văn hóa Việt Nam,số 9, Mùa hạ 2000; USA, tr.92-97; “Chử Đồng Tử với tình yêu và thuật trị dân”, Văn hóa Việt Nam, số 10, mùa thu 2000, USA, tr. 104-109.

8. Nguyễn Xuân Quang,Khai quật kho tàng cổ sử HừngViệt,USA,Y học thường thức xb. (nghĩa là tác giả tự xuấtbản), 1999, 613 trang.

9.Văn Lang vũ bộ,Sđd, tr.181; Hưng Việt, chương 7.

10.Triết lýcái đình,Sđd, tr.54;Văn Lang vũ bộ,Sđd, tr.32.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…