Anh bộ đội Cụ Hồ trong trận chiến mới
Tôi gặp lại Đại tá Nguyễn Xuân Lăng tại Nhà máy xử lý rác Thuỷ Phương ở Huế. Một cuộc gặp gỡ sau gần 30 năm. Hồi ấy là những ngày mới thống nhất đất nước, anh vẫn còn ở trong quân ngũ và đang công tác tại một cơ quan quân giới. Anh tìm đến tôi với mong muốn tìm cách cải thiện đời sống cho chiến sĩ trong đơn vị khi cuộc sống còn quá nhiều khó khăn. Tôi trao đổi với anh về mọi khả năng làm kinh tế bằng những công nghệ còn khá thô sơ của việc ứng dụng sinh học vào đời sống. Cũng đến tận ngày hội ngộ hôm nay tôi mới biết anh đã thành công trong việc xin số lượng lớn bông phế thải từ nhà máy dệt 8/3 để trồng nấm, từ đó cải thiện được cho bữa ăn của chiến sĩ trong đơn vị. Anh còn nhân giống giun quế từ môi trường phân và rác để tạo ra nguồn thức ăn giàu đạm phục vụ chăn nuôi. Anh cũng có sáng kiến sàng lọc phần đã phân huỷ của bãi rác ở khu Thành Công Hà Nội để làm một thứ phân bón phục vụ cho nâng cao năng suất cây trồng. Hơn thế nữa, anh còn làm ra được hàng xuất khẩu sang Nhật bằng cách dùng vi sinh vật phân huỷ prôtein có trong tự nhiên để xử lý xương bò thu mua trong nước và từ Lào về và đã đạt tới tiêu chuẩn xuất khẩu với sản lượng 200 tấn /năm.
Anh kể cho tôi nguyên do nào mà một kỹ sư cơ khí đã được đào tạo chuyên sâu trong và ngoài nước lại say mê với nghiên cứu xử lý rác thải. Quê anh ở Bình Lục, Hà Nam, một vùng chiêm trũng quanh năm thiếu gạo nhưng lại rất phong phú tôm, cua, cá, ốc. Dần dần gạo thì nhiều lên nhưng môi trường cứ ô nhiễm dần và tôm, cua, cá, ốc trong cả cánh đồng biến đâu hết cả. Anh rất thấm thía về ý nghĩa của một nền nông nghiệp sinh thái, điểm tựa cho một cuộc sống bền vững. Kiến thức được đào tạo 4 năm ở bậc Đại học và 8 năm tu nghiệp sau Đại học tại Việt Nam, Nga, Hung đã tạo ra một giám đốc quân giới thành thạo trong việc sản xuất đạn nhỏ, đạn lớn, thuốc nổ công nghiệp và góp phần không nhỏ vào cuộc chiến. Anh kể cho tôi nghe, năm 1964, khi mới 23 tuổi, tuy là kỹ sư tốt nghiệp loại giỏi anh đã từ chối việc được giữ lại Trường mà xung phong vào bộ đội theo tiếng gọi thiêng liêng của sự nghiệp: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”. Anh được điều vào phòng cơ điện của một nhà máy sản xuất đạn ở vùng núi Việt Bắc. Những thùng đạn do các anh sản xuất ra hàng ngày theo đường mòn Hồ Chí Minh liên tục chi viện cho chiến trường. Anh trở thành Giám đốc nhà máy quân giới và về hưu đầu năm 2001 với quân hàm Đại tá. Anh rất thoải mái sau khi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một anh lính cụ Hồ và thanh thản trở lại cuộc sống đời thường đúng như những vần thơ anh viết tặng chị Mão, người vợ hiền của anh, khi được trở về nhà sau bao năm tháng thường xuyên xa cách: Đã đến ngày trả ấn, từ quan/ Hoàn dân - trở lại thế gian/ Cùng chia tiếng khóc, cùng vang tiếng cười/ Buồn vui - quy luật đất trời, Sinh, lão, bệnh, tử - ai rồi cũng qua/ Cuộc đời đã dạy cho ta/ Tre già, măng mọc- bài ca vòng đời.
Nhưng ông Đại tá 60 tuổi đời, 34 năm tuổi Đảng ấy đâu có chịu ngồi ấm chỗ bên vợ con. Máu nghiên cứu cải tiến thiết bị cơ khí lại trỗi dậy khi đất nước đang sôi nổi đổi thay trên bước đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Anh chấp nhận làm cố vấn cho Nhà máy chế tạo thiết bị xử lý rác của anh Nguyễn Gia Long ở Hà Nội. Đó là người đã hỗ trợ rất nhiều cho anh lúc anh sản xuất xương xuất khẩu sang Nhật và cũng là người đang hỗ trợ cho nhà máy xử lý rác Thuỷ Phương ở Huế. Khi biết tin máy móc ở Thuỷ Phương còn rất nhiều trục trặc anh Long đã vui lòng cử ngay anh Lăng vào Huế, trực tiếp hỗ trợ cho người đang chủ trì nhà máy này - anh Trần Đình Quyền- Giám đốc Công ty cổ phần kỹ nghệ ASC Huế. Hai người trở thành chiến hữu trên một trận tuyến mới không kém phần gian khổ và quyết liệt. Đó là hai người rất khác nhau - một doanh nhân to béo và một cựu chiến binh gầy gò, một người ăn to nói lớn và một người trầm tính, kín đáo. Nhưng những tư tưởng lớn đã gắn bó họ với nhau như anh em ruột thịt, mặc dầu khó khăn tưởng chừng như những thách đố khó lòng có thể vượt qua được. Cả nước đua nhau chôn rác bằng kinh phí của Nhà nước. Nghe đâu mỗi năm Nhà nước phải chi đến trên 15 nghìn tỷ đồng và phải bỏ ra đến trên 5000 ha đất đai quanh các đô thị để...chôn rác. Đâu phải chỉ lãng phí tiền bạc và một nguồn tài nguyên khá lớn mà nhẽ ra có thể tái chế thành các hàng hoá hữu ích, chuyện chôn rác tươi sẽ chỉ như là che dấu một cái xấu chưa được sửa chữa. Rác chứa tới 80% là nước, khi bị phân giải bởi vi sinh vật chúng sẽ tạo thành vô số các sản phẩm có mùi hôi thối (indol, skatol, H 2S, NH 3...) và nước hôi thối ấy ngày ngày sẽ chảy ra từ đống rác, gây nhức nhối đến mức không sao chịu nổi cho toàn thể cư dân quanh khu vực chôn rác. Nhiều nơi dân đã biểu tình và công khai chắn đường các xe chở rác (!). Nhà nước phải bỏ ra không ít ngoại tệ để nhập công nghệ của các nước tiên tiến và xây dựng nên các nhà máy chế biến rác với diện mạo rất bề thế. Nhưng đâu có đơn giản như vậy. Đành rằng công nghệ của thế giới là rất tiên tiến, nhưng rác ở nước người ta là loại rác đã được phân loại ngay từ nhà của từng người dân nên phần đưa đi xử lý chỉ còn là rác hữu cơ đơn thuần. Các dao băm rác gặp phải gạch đá, sắt vụn, vỏ đồ hộp, nút bia thì quằn ngay và phải thay liên tục và có ủ đến bao nhiêu ngày thì chất dẻo, chất rắn vô cơ cũng không sao phân huỷ nổi. Kết quả là từ các nhà máyhiện đại ấy chỉ có thể cho ra một lượng nhỏ phân hữu cơ chất lượng không cao, còn thì quá nửa số lượng rác vẫn tiếp tục phải đưa đi chôn lấp.