An toàn - vệ sinh lao động trong sản xuất nông nghiệp: Phải bắt đầu từ nâng cao ý thức
Những cái chết không đáng có
Tình hình tai nạn giao thông trong công nghiệp hàng năm đã được báo cáo về Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (LĐTB&XH) khá đầy đủ. Trong khi thông tin liên quan đến tai nạn lao động trong nông nghiệp (ngày càng gia tăng), song chưa có thống kê cụ thể. Qua những báo cáo riêng lẻ, năm 2001, tỉnh Đồng Tháp có 2.900 vụ tai nạn lao động trong sản xuất nông nghiệp, năm 2002 là 3.100 vụ (tăng 200 vụ). Hàng năm cả nước có trên 5.000 trường hợp ngộ độc thuốc bảo vệ thực vật phải vào cấp cứu tại bệnh viện, gây tử vong 300 người... Có những cái chết (thương tật) rất thương tâm và không đáng có như, anh Phạm Xuân Thu xóm Mỹ Trung, xã Hưng Lộc (thành phố Vinh - Nghệ An), 57 tuổi, thương bình 4/4, năm 2001 sử dụng máy tuốt lúa bị đứt một cánh tay bên trái. Chị Nguyễn Thị Liễu ở khối 6, phường Nghi Thuỷ (Nghi Lộc, Nghệ An có 4 con, chồng bị chết do dẫm phải dây điện hở khi đang trên đường ra thuyền đi đánh cá. Năm 2004 một phụ nữ ở Thành phố Hồ Chí Minh, khi sản xuất nhựa tái sinh bị máy cuốn tới đùi và chết ngay sau đó...
Bắt đầu từ việc nhỏ
Nguy cơ đe doạ sự an toàn và sức khoẻ người lao động trong nông nghiệp Việt Nam ngày càng gia tăng, bao gồm tai nạn máy móc; tiếp xúc hoá chất; sử dụng điện không an toàn; sự nóng bức; bụi, khói; mang vác nặng cùng những trang thiết bị vệ sinh và công trình phúc lợi còn nghèo nàn. Vì vậy ngay từ năm 2001 với sự hỗ trợ về kỹ thuật của ILO. Bộ LĐTB&XH đã đẩy mạnh các hoạt động về AT-VSLĐ trong sản xuất nông nghiệp và tiến hành nhiều khoá huấn luyện dành cho nông dân. Tiếp đến là Dự án nâng cao năng lực An toàn - vệ sinh lao động trong nông nghiệp tại Việt Nam (RAS/04/MO1/JPN) do Chính phủ Nhật Bản tài trợ, thời hạn 3 năm (2004-2007). Các hoạt động trên đã thực sự đem lại lợi ích cho nông dân. Nội dung chính của dự án là hướng dẫn cho nông dân các giải pháp hay, phù hợp với thực tế và dễ thực hiện. Giúp nông dân phòng ngừa và ngăn chặn tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Chương trình WIND (Phát triển tình làng nghĩa xóm để cải thiện điều kiện lao động) là một ví dụ điển hình. Bốn tỉnh Hà Nam , Nghệ An, Cần Thơ và Hậu Giang được lựa chọn làm điểm. Trước tiên, các địa phương chọn 15-16 cặp vợ chồng (để họ cùng nhau bàn bạc công việc); sau đó các cặp vợ chồng này được huấn luyện trong 2 ngày những công việc cụ thể như cải tiến cách vận chuyển và cất giữ vật liệu; thiết kế nơi làm việc hợp lý tránh các thao tác thừa, nhàm chán và mệt mỏi dễ gây tai nạn; an toàn máy móc; an toàn điện; cải thiện môi trường tự nhiên; loại trừ các hoá chất độc hại và đề ra kế hoạch hành động trong tương lai. Sau đó các cặp vợ chồng này về triển khai tại gia đình mình và vận động bà con trong xóm cùng thực hiện để cải thiện điều kiện sống, điều kiện lao động. Thí dụ như cùng nhau đào kênh, khai thông cống rãnh, làm giảm độ cao đột ngột ở các đoạn dốc, cải tạo các lối đi bị hỏng... Qua việc thực hiện dự án, các hộ biết khi nào cần sử dụng các phương tiện bảo vệ cá nhân như quần áo bảo hộ, găng, kính, giày, mũ và mặt nạ... Bà con huyện Hưng Nguyên (Nghệ An) sau khi tham gia lớp học, gia đình nào cũng có ủng khi xuống đồng, đeo mặt nạ khi tuốt lúa. Trước đây, khi mua máy móc về bà con thường tháo bỏ bộ phận an toàn để dễ vận chuyển nay đã biết lắp vào...
Hiện tại, hầu hết các địa phương trên cả nước đã có điện, việc đảm bảo sử dụng điện an toàn cũng là một yếu tố quan trọng. Việc treo cao cầu dao điện, dây điện, tránh tai nạn khi sử dụng, trẻ nhỏ nghịch phá... là điều hết sức cần thiết. Ở Cần Thơ, một nông dân đi học về đã viết lên bảng “Các con chú ý, điện rất nguy hiểm).
Việc cất giữ và vận chuyển vật liệu, dụng cụ lao động và nông sản cũng mất rất nhiều thời gian và công sức, nếu có cách làm việc khoa học, như sử dụng các giá đựng nhiều tầng, xe kéo nhẹ và các lối dễ đi... thì các giải pháp đócũng đem lại kết quả cao. Hoặc có cách kiểm soát thuốc trừ sâu và hoá chất không tốn nhiều chi phí như cất ở nơi an toàn và dán nhãn mác dễ đọc, để xa tầm tay trẻ nhỏ... Sau khoá học, học viên có những hiểu biết cần thiết về AT-VSLĐ trong sản xuất nông nghiệp.
Khi ý thức được nâng cao, tai nạn sẽ giảm
Theo ông Vũ Như Văn, Phó cục trưởng Cục An toàn lao động (Bộ LĐ-TBXH), Trưởng ban quản lý dự án: “Điều quan trọng nhất là chương trình đã thay đổi được nhận thức của người nông dân. Khi ý thức về AT-VSLĐ của người dân được nâng cao, tai nạn lao động sẽ giảm”. Sau khi được đào tạo và đã làm tốt ở gia đình mình họ sẽ trở thành những tình nguyện viên, tiếp tục tuyên truyền về AT-VSLĐ đến những nông dân khác cho đến khi “phủ sóng” trong toàn cộng đồng. Ngược lại, những kinh nghiệm thực tế của chương trình WIND ở cơ sở sẽ giúp cho việc xây dựng chính sách Quốc gia về AT-VSLĐ cho nông dân tại Việt Nam . Chương trình này hiện đang được nhân rộng ra các địa phương trong cả nước. Theo tổng kết của Bộ LĐTB&XH, từ tháng 10-2004 đến tháng 4-2005 đã tổ chức được 9 lớp tập huấn thí điểm cho 276 nông dân tham gia với trên 450 hành động cải thiện điều kiện lao động và điều kiện sống được các học viên trình bày và cam kết thực hiện. 22 người đã đăng ký làm tình nguyện viên của chương trình. Năm 2005 sẽ xây dựng Chương trình Quốc gia về AT-VSLĐ.
Tình làng nghĩa xóm càng thêm mặn mà
Đang ngày mùa và giữa cái nắng 40 độ C nhưng chị Nguyễn Thị Tụ xóm 8, xã Hưng Chính (Hưng Nguyên - Nghệ An) vẫn về nhà sớm hơn thường lệ để “hướng dẫn” chúng tôi những đổi thay của chị sau khi tham gia lớp học. Điều gây ấn tượng đầu tiên cho chúng tôi là đôi bánh xe cải tiến trước đây bằng lốp đặc, để kéo 2 tạ lúa phải có 2 vợ chồng, nay đôi lốp này được thay bằng lốp xe Honda đã hỏng. Cũng 2 tạ lúa nhưng chỉ cần một người kéo, có người còn đến tận nơi để xem chị đang chở lúa hay chở trấu. Tủ thuốc gia đình được treo gọn ghẽ trên tường, các loại thuốc được đựng trong lọ có dán giấy ghi tên thuốc, công dụng. Chị Tụ cho biết, trước đây các loại thuốc thông dụng như đau đầu, đau bụng, cảm cúm... được đựng chung trong một túi nilon cất vào đâu đó. Khi cấp bách không tìm thấy và khả năng uống nhầm thuốc là chuyện thường. Nay từ cái bể cá bằng nhôm kính bỏ đi (chỉ mất tiền công và tiền ốc vít) đã thành tủ thuốc gia đình rất an toàn, tiện lợi. Nơi để lại ấn tượng nhiều nhất là khu bếp. Chị Nguyễn Thị Huyền Cơ, Chủ tịch Hội Phụ nữ xã cùng đi với chúng tôi cho biết: “trước đây xoong nồi nhà chị Tụ để bừa bãi, không có giá treo như bây giờ, nay cán cần dùng để ngăn dưới, dễ lấy, cái ít dùng để ngăn trên. Chai lọ đựng muối, bột ngọt, đường cũng được dán nhãn, khi cần lấy rất nhanh. Nhờ 2 tấm kính lấy sáng trên mái ngói, cả gian bếp sáng sủa như có điện, vừa tiết kiệm vừa tiện lợi sạch sẽ”. Chị Tụ nói vui, nhà chị có 2 vật dụng khi cần tìm “vàng cả mắt” đó là dụng cụ lao động và guốc dép. Nay cả hai đã có chỗ để ngăn nắp, chỉ cần vài thanh gỗ mỏng đóng thành giá thế là tha hồ để guốc dép. Thuốc bảo vệ thực vật được bảo quản kỹ, vẽ ký hiệu nguy hiểm và treo trên cây sau nhà. Cuối cùng là việc cải thiện góc học tập cho 2 cậu con trai. Trước đây do tiết kiệm điện, cả nhà dùng chung một bóng đèn nêon, các cháu vừa không đủ ánh sáng để học vừa không yên tĩnh. Nay bàn học được kê gần cửa sổ, ban ngày có ánh sáng tự nhiên, buổi tối có đèn bàn... Chị Tụ hiện đã là tình nguyện viên của chương trình, sắp tới chị sẽ tham gia lớp bồi dưỡng ngắn hạn và sẽ đến từng gia đình giúp họ cải thiện điều kiện sống AT-VSLĐ. Hoặc như gia đình anh Quang ở xóm 5, trước đây lối vào nhà rất cao, những vật dụng nặng như xe máy muốn đưa vào phải có 2 vợ chồng. Sau khi đi học về, anh chị đã sửa lại lối đi và mọi việc trở nên dễ dàng.
Nguồn: Kinh tế nông thôn, số 29 (463), 18/7/2005, tr 3








