Ấn phẩm khoa học và chỉ số kinh tế tri thức
Tóm tắt:Dữ liệucủa Viện thông tin khoa học (Institute of Scientific Information) cho thấy trong 20 năm qua, các nhà khoa học của các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã công bố 165.020 bài báo khoa học trên các tập san được liệt kê trong danh mục ISI, và con số này chiếm khoảng 0,5% tổng số bài báo khoa học toàn thế giới. Ở cấp quốc gia, hệ số tương quan giữa chỉ sốkinh tếtri thức và kết quả nghiên cứu khoa học là 0,94.
Dựa vào mối liên hệ giữa ấn phẩm khoa học và kinh tế tri thức, các tác giả nhận ra 4 nhóm quốc gia trong khối ASEAN: nhóm 1 gồm Singapore; nhóm 2 bao gồm Thái Lan và Malaysia; nhóm 3 có Việt Nam, Indonesia, và Philippines; nhóm 4 gồm Campuchia, Lào, Myanmar, và Brunei.
Kết quả phân tích này cho thấy có một mối liên hệ chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học và mức độ "tri thức hóa" của nền kinh tế.
ASEAN là một trong những nền kinh tế năng động nhất thế giới. Với dân số khoảng 600 triệu (tức 9% dân số thế giới), và tổng GDP là 1,8 ngàn tỉ, nền kinh tế ASEAN là một nền kinh tế lớn thứ 9 trên thế giới, và đứng hàng thứ 3 ở châu Á. Khối ASEAN đã trải qua một thời kỳ tăng trưởng kinh tế liên tục rất đáng kể trong những năm gần đây, với tỉ lệ tăng trưởng trung bình từ 5 đến 6% mỗi năm trong suốt 20 năm qua. Trong những năm gần đây, các nước ASEAN đã và đang tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ nhằm đạt đến một nền kinh tế mà tri thức là một động lực.
Kinh tế tri thức và nghiên cứu khoa học
Khái niệm kinh tế tri thức ( knowledge-based economyhay knowledge driven economy) được hình thành như một khung lý thuyết mới để đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia. Nói một cách đơn giản nhất, kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó vai trò của tri thức (khi so sánh với tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực vật chất và lao động chân tay) đóng vai trò chủ đạo.
Trong nền kinh tế tri thức, sự phát triển kinh tế có liên quan tới mức độ cạnh tranh về công nghệ, và cạnh tranh công nghệ phụ thuộc vào khoa học và nghiên cứu khoa học. Do vậy, trong nền kinh tế tri thức, nghiên cứu khoa học đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế.
Kết quả của nghiên cứu khoa học thể hiện qua số lượng bài báo khoa học trong những tập san chuyên ngành có bình duyệt quốc tế. Tuy có tới trên 100.000 tập san khoa học trên toàn thế giới, chỉ có những tập san được liệt kê trong danh mục của Institute of Scientific Information (ISI) là được cộng đồng khoa học quốc tế công nhận. Các tập san này cũng được công nhận rộng rãi trên thế giới. Cơ sở dữ liệu ISI bao gồm khoảng 10-12% tổng số tạp chí có bình duyệt.
Thật vậy, số bài báo khoa học được công bố trong các tập san ISI là một tiêu chuẩn quan trọng của hoạt động khoa học và là một thước đo của tiến bộ khoa học cho một quốc gia. Do đó, bài báo khoa học cũng được coi là một thành tố kiến tạo nên nền kinh tế tri thức.
Cho đến nay chưa có một công trình nào khảo sát kết quả nghiên cứu khoa học và mối quan hệ của nó với các chỉ báo của nền kinh tế tri thức ở các nước ASEAN. Chúng tôi phân tích dữ liệu ISI để tìm hiểu mối tương quan giữa nghiên cứu khoa học và chỉ số kinh tế tri thức của các nước ASEAN.
Số lượng ấn phẩm nghiên cứu khoa học
Trong khoảng thời gian 1991-2010, 10 nước ASEAN đã công bố 165.020 bài báo nguyên thủy trên các tập san khoa học được liệt kê trong danh mục ISI. Con số này chiếm 0,5% tổng số bài báo khoa học của thế giới. Singapore dẫn đầu khu vực với số lượng bài báo khoa học cao nhất, chiếm 45% tổng số bài báo khoa học của 10 nước. Thái Lan và Malaysia, chiếm [lần lượt] 21% và 16% tổng số ấn phẩm khoa học. Việt Nam (tỉ trọng 6,5%), Indonesia (5%) và Philippines (5%). Nhóm cuối bảng là Campuchia, Lào, Myanmar và Brunei, ấn phẩm khoa học trong 10 năm không đầy con số 1.000 bài, và chỉ chiếm dưới 2% tổng số ấn phẩm khoa học của ASEAN.
Số lượng bài báo khoa học ở tất cả các nước gia tăng đều đặn trong quãng thời gian 1991-2010 ( Biểu đồ 1). Tính trung bình, tỉ lệ tăng trưởng gộp lại là 13% mỗi năm, và tỉ lệ này chủ yếu là do sự tăng trưởng của Singapore (13%/năm), Thái Lan (15%/năm), và Malaysia (14%). Việt Nam cũng đạt 13% gia tăng mỗi năm trong cùng kỳ. Tuy nhiên, Indonesia và Philippines có mức tăng thấp nhất (8%/năm).
Khi chia quãng thời gian 20 năm thành hai thập niên 1991-2000 và 2001-2010, có thể thấy tổng số bài báo khoa học của 10 nước trong thời gian 2001-2010 tăng gấp 3,3 lần so với quãng thời gian 1991-2000 ( Bảng 1). Tuy nhiên, tỉ lệ tăng trưởng giữa các nước khác nhau rõ rệt.
![]() |
Biểu đồ 1. Số ấn phẩm khoa học trong giai đoạn 1991 - 2010 từ các nước Đông Nam Á |
Bảng 1. Số lượng ấn phẩm khoa học (chỉ tính bài báo khoa học nguyên thủy) từ các nước Đông Nam Á trong giai đoạn 1991 - 2010
Nước | 1991 - 2000 | 2001 - 2010 | Số lần gia tăng |
Việt Nam | 2398 | 8220 | 3,43 |
Campuchia | 97 | 880 | 9,07 |
Lào | 41 | 375 | 9,15 |
Thái Lan | 6673 | 28148 | 4,22 |
Myanmar | 189 | 546 | 2,89 |
Malaysia | 5366 | 21203 | 3,95 |
Indonesia | 2638 | 5784 | 2,19 |
Brunei | 210 | 345 | 1,64 |
Philippines | 2630 | 4956 | 1,88 |
Singapore | 18220 | 56101 | 3,07 |
Tất cả | 38462 | 126558 | 3,2 |
Về số lượng, Singapore dẫn đầu với số lượng bài báo khoa học cao nhất, tiếp đó là Thái Lan, Malaysia, Việt Nam, Indonesia, và Philippines.
Về tỉ lệ tăng trưởng, con số cao nhất được ghi nhận ở Campuchia. Số bài báo khoa học từ Thái Lan trong thời gian 2000-2010 tăng 4,2 lần so với thập niên trước. Tỉ lệ tăng trưởng cao này cũng có thể thấy ở Malaysia (3,9 lần), Việt Nam (3,4 lần), và Singapore (3,1 lần) trong lúc có thể thấy tỉ lệ tăng trưởng thấp ở (2,2 lần) và Philippines (1,9 lần).
Lĩnh vực nghiên cứu
Dùng chức năng phân loại lĩnh vực nghiên cứu, chúng tôi chia ấn phẩm khoa học của ASEAN thành 12 nhóm lớn: nông nghiệp, khoa học cơ bản, khoa học y sinh, hóa học, kinh tế, kỹ thuật, khoa học môi trường, khoa học vật liệu, toán, vật lý, y tế công cộng, và khoa học xã hội. Tổng số bài báo khoa học và tỉ lệ bài của mỗi lĩnh vực nghiên cứu được nêu trong Biểu đồ 2.
![]() |
Biểu đồ 2. Mối liên hệ giữa số ấn phẩm khoa học (trục hoành) và chỉ số kinh tế tri thức (knowledge economy index, phần trên), và chỉ số sáng tạo (innovation index, phần dưới). Đường kính vòng tròn cho mỗi nước phản ánh số lượng tương đối bài báo khoa học. |
Ở Singapore, kết quả nghiên cứu trong kỹ thuật và y sinh học được xếp hạng là lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu. Xu hướng tương tự cũng được ghi nhận trong nhóm nước thứ hai (Thái Lan và Malaysia), nơi nghiên cứu về khoa học y sinh và kỹ thuật chiếm hơn 70% tổng số ấn phẩm khoa học.
Trong nhóm thứ ba (Việt Nam, Indonesia và Philippines) ấn phẩm về khoa học y sinh và nông nghiệp chiếm phần lớn trong tổng số ấn phẩm khoa học.
Phân tích chi tiết hơn về lĩnh vực nghiên cứu, Bảng 2thể hiện sự khác biệt rõ hơn về hoạt động nghiên cứu khoa học của các nước. Chẳng hạn, ở Singapore, số bài báo khoa học trong lĩnh vực điện tử và kỹ thuật điện, vật lý ứng dụng, khoa học vật liệu và những ngành khoa học mới hơn như công nghệ nano được xếp hạng là những lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu.
Bảng 2. Những lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu trong mỗi nước dựa trên số lượng bài báo khoa học trong thời gian 1991-2000 và 2001-2010
Nước và lĩnh vực nghiên cứu | 1991-2000 | 2001-2010 | Số lần gia tăng |
Việt Nam | |||
Toán ứng dụng | 245 | 607 | 2,48 |
Toán | 306 | 552 | 1,80 |
Y tế công cộng, môi trường và sức khỏe nghề nghiệp | 127 | 527 | 4,15 |
Vật lý chất rắn | 203 | 420 | 2,07 |
Bệnh Truyền nhiễm | 64 | 366 | 5,72 |
Khoa học Vật liệu | 99 | 337 | 3,40 |
Kỹ thuật, Điện, Điện tử | 17 | 335 | 19,71 |
Y học Nhiệt đới | 92 | 305 | 3,32 |
Vi sinh học | 73 | 300 | 4,11 |
Khoa học Môi trường | 62 | 276 | 4,45 |
Khoa học Cây trồng | 114 | 246 | 2,16 |
Vật lý ứng dụng | 86 | 245 | 2,85 |
Vật lý (Đa ngành) | 77 | 211 | 2,74 |
Hóa sinh học và Sinh học Phân tử | 82 | 163 | 1,99 |
Thái Lan | |||
Dược lý và Dược học | 372 | 1528 | 4,11 |
Khoa học và Công nghệ Thực phẩm | 141 | 1404 | 9,96 |
Hóa sinh học Sinh học Phân tử | 302 | 1373 | 4,55 |
Miễn dịch học | 571 | 1299 | 2,27 |
Bệnh Truyền nhiễm | 351 | 1279 | 3,64 |
Công nghệ sinh học, Vi sinh học ứng dụng | 199 | 1214 | 6,10 |
Vi sinh học | 338 | 1162 | 3,44 |
Y tế công cộng, môi trường và sức khỏe nghề nghiệp | 510 | 1152 | 2,26 |
Kỹ thuật Hóa | 116 | 1057 | 9,11 |
Khoa học Môi trường | 175 | 1045 | 5,97 |
Khoa học Vật liệu | 71 | 988 | 13,92 |
Khoa học Cây trồng | 317 | 913 | 2,88 |
Y học Nhiệt đới | 386 | 822 | 2,13 |
Sản khoa và Phụ khoa | 185 | 431 | 2,33 |
Malaysia | |||
Tinh thể học | 458 | 2961 | 6,47 |
Kỹ thuật, Điện, Điện tử | 127 | 1169 | 9,20 |
Khoa học Vật liệu | 151 | 1057 | 7,00 |
Hóa học | 113 | 947 | 8,38 |
Khoa học và Công nghệ Thực phẩm | 304 | 943 | 3,10 |
Khoa học Môi trường | 151 | 807 | 5,34 |
Công nghệ sinh học ứng dụng | 198 | 776 | 3,92 |
Khoa học cao phân tử | 222 | 775 | 3,49 |
Vật lý ứng dụng | 85 | 682 | 8,02 |
Hóa học, Vật lý học | 161 | 627 | 3,89 |
Dược lý và Dược học | 235 | 617 | 2,63 |
Hóa học ứng dụng | 227 | 573 | 2,52 |
Hóa sinh học và sinh học phân tử | 193 | 460 | 2,38 |
Khoa học Cây trồng | 243 | 414 | 1,70 |
Hóa học Vô cơ và Hạt nhân | 209 | 346 | 1,66 |
Indonesia | |||
Khoa học Môi trường | 95 | 302 | 3,18 |
Sinh thái học | 92 | 296 | 3,22 |
Khoa học Cây trồng | 167 | 293 | 1,75 |
Y tế công cộng, môi trường và sức khỏe nghề nghiệp | 144 | 268 | 1,86 |
Dược lý và Dược học | 104 | 237 | 2,28 |
Động vật học | 90 | 227 | 2,52 |
Địa (Đa ngành) | 119 | 216 | 1,82 |
Bệnh Truyền nhiễm | 67 | 208 | 3,10 |
Vi sinh học | 96 | 203 | 2,11 |
Hóa học, Y | 66 | 191 | 2,89 |
Y học Nhiệt đới | 99 | 180 | 1,82 |
Miễn dịch học | 96 | 157 | 1,64 |
Nông học | 125 | 150 | 1,20 |
Dinh dưỡng và Niệu học | 102 | 119 | 1,17 |
The Philippines | |||
Nông học | 414 | 518 | 1,25 |
Khoa học Cây trồng | 452 | 421 | 0,93 |
Nông nghiệp (Đa ngành) | 73 | 412 | 5,64 |
Khoa học Môi trường | 114 | 242 | 2,12 |
Hải dương học và Sinh học Nước ngọt | 242 | 237 | 0,98 |
Ngư nghiệp | 215 | 184 | 0,86 |
Y tế công cộng, Môi trường và sức khỏe nghề nghiệp | 90 | 178 | 1,98 |
Khoa học Thú y | 34 | 143 | 4,21 |
Hóa sinh học Sinh học Phân tử | 94 | 141 | 1,50 |
Bệnh Truyền nhiễm | 58 | 138 | 2,38 |
Gen và di truyền học | 121 | 135 | 1,12 |
Sinh thái học | 90 | 133 | 1,48 |
Khoa học đất trồng | 187 | 126 | 0,67 |
Khoa học làm vườn | 109 | 98 | 0,90 |
Singapore | |||
Kỹ thuật, Điện, Điện tử | 2376 | 7021 | 2,95 |
Vật lý Ứng dụng | 1030 | 5372 | 5,22 |
Khoa học Vật liệu | 1484 | 5097 | 3,43 |
Hóa học, Vật lý | 533 | 2853 | 5,35 |
Quang học | 452 | 2615 | 5,79 |
Hóa sinh học và sinh học phân tử | 656 | 2292 | 3,49 |
Khoa học nano | 174 | 2242 | 12,89 |
Hóa học, Đa ngành | 291 | 2111 | 7,25 |
Vật lý chất rắn | 577 | 1766 | 3,06 |
Cơ khí | 748 | 1668 | 2,23 |
Kỹ thuật, Cơ khí | 674 | 1326 | 1,97 |
Kỹ thuật tự động | 578 | 1170 | 2,02 |
Toán ứng dụng | 493 | 903 | 1,83 |
Ở Thái Lan, nghiên cứu về miễn dịch học, y tế công cộng, y học nhiệt đới, dược lý và dược học, khoa học thực phẩm là những ngành đóng góp cao nhất cho số bài báo khoa học của quốc gia.
Những lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu ở Việt Nam là khoa học cơ bản, toán ứng dụng, vật lý ứng dụng và vật lý lý thuyết, y tế công cộng và bệnh truyền nhiễm, tất cả đã đóng góp hơn 30% tổng số bài báo khoa học của cả nước.
Ở Malaysia, nghiên cứu về tinh thể học, khoa học và công nghệ thực phẩm, khoa học về cây trồng, dược lý và dược học là những lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu.
Philippines và Indonesia có nhiều bài báo khoa học trong lĩnh vực nông học, khoa học cây trồng, hải dương học, sinh học nước ngọt và ngư nghiệp.
Chất lượng
Để đánh giá chất lượng của các bài báo khoa học, chúng tôi xác định số lượng bài báo nguyên thủy được công bố trong thời gian từ 2001-2005, và tần số trích dẫn giữa thời kỳ này và năm 2010 ( Bảng 3).
Bảng 3. Tần số trích dẫn và chỉ số H của các bài báo công bố trong thời gian 2001 đến 2005 của các nước ASEAN
Nước | Số bài báo khoa học | Số lượng trích dẫn | Tỉ lệ trích dẫn trung bình | Chỉ số H |
Việt Nam | 2683 | 29714 | 11,1 | 59 |
Campuchia | 160 | 2455 | 15,3 | 25 |
Lào | 112 | 1548 | 13,8 | 20 |
Thái Lan | 8796 | 120936 | 13,8 | 92 |
Myanmar | 122 | 1825 | 15,0 | 22 |
Malaysia | 5464 | 49716 | 9,1 | 66 |
Indonesia | 2199 | 26728 | 12,2 | 57 |
Brunei | 142 | 1461 | 10,3 | 18 |
Philippines | 1940 | 25458 | 13,1 | 58 |
Singapore | 21995 | 338654 | 15,4 | 104 |
Ngoài ra, chúng tôi cũng cung cấp chỉ số H cho từng nước. Chỉ số H được tính toán từ số lần trích dẫn và số bài báo, và là một thước đo quan trọng về chất lượng nghiên cứu khoa học.
Singapore và Campuchia có tỉ lệ trích dẫn cao nhất (15,4 và 15.3 trích dẫn/bài báo, theo thứ tự).
Tuy nhiên, khi đánh giá chất lượng dựa trên chỉ số H, nghiên cứu ở Singapore vẫn có tác động cao hơn (chỉ số H là 104), tiếp đó là Thái Lan (92), các nước khác như Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Philippines có chỉ số H gần tương đương nhau (khoảng từ 57 đến 66).
Với ít số bài báo khoa học, Campuchia, Lào, Myanmar và Brunei có chỉ số H thấp nhất trong các nước ASEAN.
Kinh tế tri thức
Dữ liệu về chỉ số kinh tế tri thức (KEI), chỉ số sáng tạo và công nghệ thông tin truyền thông (ICT) được trình bày trong Bảng 4. Trong 10 nước được phân tích, với bất cứ chỉ báo nào, Singapore vẫn được xếp hạng cao nhất, theo sau là Malaysia và Thái Lan. Những nước khác (như Việt Nam, Indonesia, và Philippines) có chỉ số KEI và chỉ số sáng tạo tương đương, nhưng cao hơn các nước Campuchia, Lào và Myanmar.
Bảng 4. Chỉ số kinh tế tri thức và những chỉ số liên quan đến tri thức của 10 nước ASEAN
Nước (xếp hạng) | Chỉ số kinh tế tri thức (KEI) | Chỉ số tri thức (KI) | Chỉ số khuyến khích kinh tế | Chỉ số sáng tạo (II) | Chỉ số công nghệ thông tin (ICT) |
Việt Nam (100) | 3,51 | 3,74 | 2,79 | 2,72 | 4,85 |
Campuchia | 1,56 | 1,54 | 1,63 | 2,07 | 0,62 |
Lào | 1,94 | 2,09 | 1,47 | 2,0 | 2,03 |
Thái Lan (63) | 5,52 | 5,66 | 5,12 | 5,76 | 5,64 |
Myanmar | 1,34 | 1,69 | 0,31 | 1,30 | 0,70 |
Malaysia (48) | 6,07 | 6,06 | 6,11 | 6,82 | 7,14 |
Indonesia (103) | 3,29 | 3,17 | 3,66 | 3,19 | 2,72 |
Brunei | NA | NA | NA | NA | NA |
The Philippines (89) | 4,12 | 4,03 | 4,37 | 3,80 | 3,60 |
Singapore (19) | 8,44 | 8,03 | 9,68 | 9,58 | 9,22 |
Biểu đồ 2cho thấy có một mối liên hệ tuyến tính giữa số lượng bài báo khoa học và KEI hay chỉ số sáng tạo. Theo đó, các nước có KEI cao hơn tương ứng với số bài báo khoa học nhiều hơn. Hệ số tương quan giữa số lượng bài báo khoa học và KEI là 0,96, giữa bài báo khoa học và chỉ số sáng tạo là 0,94.
Dựa vào mối liên hệ giữa ấn phẩm khoa học và chỉ số kinh tế tri thức, có thể chia 10 nước ASEAN thành 4 nhóm rõ rệt: nhóm 1 chỉ có Singapore đứng đầu; nhóm 2 bao gồm Thái Lan và Malaysia; nhóm 3 gồm Việt Nam, Indonesia, và Philippines; và nhóm 4 có Campuchia, Lào, Myanmar, và Brunei.
Có thể nói, nhìn chung, đóng góp của các nước ASEAN cho tri thức khoa học thế giới vẫn còn rất khiêm tốn so với quy mô dân số. Và có một mối tương quan rõ rệt giữa kết quả nghiên cứu khoa học và chỉ số kinh tế tri thức trong các nước ASEAN.
Truy tìm căn nguyên
Châu Á ngày càng được ghi nhận là vùng với nhiều cường quốc khoa học mới trỗi vậy. Từ năm 2006, số lượng bài báo khoa học của Trung Quốc đã đưa họ lên vị trí thứ nhì (sau Hoa Kỳ) về tỉ lệ mà họ chiếm giữ trong kết quả nghiên cứu khoa học toàn cầu. Hàn Quốc và Ấn Độ cũng đang tăng chi ngân sách cho nghiên cứu và phát triển, và đã tạo ra những kết quả đầy ấn tượng trong hai mươi năm qua.
Tuy các nước ASEAN chiếm một phần khiêm tốn trong tổng số bài báo khoa học toàn thế giới, nhưng tỉ lệ gia tăng 15% mỗi năm của các nước này sẽ khiến họ nhanh chóng tăng tỉ lệ đóng góp của mình trong tổng số bài báo khoa học toàn cầu.
Có nhiều cách giải thích cho sự cách biệt lớn giữa các nước về kết quả nghiên cứu khoa học. Ở các nước ASEAN ngân sách nhà nước dành cho nghiên cứu và phát triểncó một vai trò quan trọng trong việc định hình bức tranh nghiên cứu khoa học. Trong lúc Singapore đầu tư lớn cho khoa học và công nghệ [1] thì những nước khác như Việt Nam và Indonesia có mức đầu tư thấp hơn nhiều. Bởi vậy có lẽ cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi bài báo khoa học của Việt Nam, Indonesia và Philippine còn rất khiêm tốn so với Singapore, Thái lan, và Malaysia.
Kinh tếvà mức độ ổn định xã hộicũng có thể là một cách giải thích khác. Trong khi Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh trong suốt 100 năm qua, các nước khác trong vùng được hưởng một thời kỳ dài ổn định.
Quả vậy, hoạt động nghiên cứu khoa học của Việt Nam chỉ thật sự "cất cánh" từ 1990, khi áp dụng chính sách đổi mới sau một thời kỳ dài khủng hoảng kinh tế và bị cô lập về chính trị. Do vậy, không có gì ngạc nhiên khi thấy kết quả nghiên cứu khoa học của Việt Nam là thấp nhất trong 10 năm đầu (1991-2000) nhưng đã gia tăng nhanh chóng trong thập kỷ kế tiếp.
Một lý do khác cho sự đóng góp khiêm tốn của khoa học ASEAN trong ấn phẩm khoa học toàn cầu là trở ngại về tiếng Anh. Ngoài Singapore và Philippines là ngoại lệ, nhiều người nghiên cứu ở các nước ASEAN còn lại không/chưa quen thuộc với tiếng Anh, và hệ quả là phần lớn công trình nghiên cứu của họ chỉ công bố ở các tạp chí trong nước và không được ghi nhận trong cơ sở dữ liệu ISI. Điều này có nghĩa là chỉ có một phần nhỏ các bài báo khoa học của giới nghiên cứu châu Á nói chung hiện diện trong các tạp chí được liệt kê trong danh mục ISI.
Một phân tích trước đây cho thấy chỉ có khoảng 10% bài báo y khoa của Trung Quốc được công bố trong những tạp chí của hệ thống PubMed [2].
Ngoài ra, các tác giả ASEAN, cũng như những tác giả không phải người bản ngữ tiếng Anh, đã gặp khó khăn lớn khi muốn công bố bài báo khoa học của mình trên các tập san khoa học sử dụng tiếng Anh [3-4], do "chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong việc biên tập" còn gọi là "editorial racism" [5], và do thành kiến coi thường những công trình của họ. Tất cả những nguyên nhân này đã góp phần khiến cho sự hiện diện của giới khoa học ASEAN trong các tạp chí được liệt kê trong danh mục ISI còn khiêm tốn.
Còn nữa
Ghi chú: Chỉ số H bằng 59 có nghĩa là trong thời gian 2001-2005, có 59 bài báo khoa học từ Việt Nam (trong số 2683) được trích dẫn ít nhất là 59 lần. Chỉ số H là một thuốc đo phản ảnh chất lượng nghiên cứu trong mỗi ngành khoa học.
Tài liệu tham khảo:
[1] Arunachalam S, Garg KC (1985) A small country in a world of big science: a preliminary bibliometric study of science in Singapore. Scientometrics 8: 301-313.
[2] Mely B, El Kader MA, Dudognon G, Okubo Y (1998) Scientific publication from China in 1994: evolution or revolution? Scientometrics 42: 3-16.
[3] Stolerman IP, Stenius K (2008) The language barrier and institutional provincialism in science. Drug Alcohol Depend 92: 1-2.
[4] Vasconcelos SM, Sorenson MM, Leta J, Sant'ana MC, Batista PD (2008) Researchers' writing competence: a bottleneck in the publication of Latin-American science? EMBO Rep 9: 700-702.
[5] Tyrer P (2005) Combating editorial racism in psychiatric publications. Br J Psychiatry 186: 1-3.
[6] Svasti MRJ, Asavisanu R (2006) Update on Thai publications in ISI databases 1999-2005. ScienceAsia 32: 101-106.
[7] Okubo Y, Dore JC, Ojasoo T, Miquel JF (1998) A multivariate analysis of publication trends in the 1980s with special reference to South East Asia. Scientometrics 41: 273-289.
[8] Osareh F, Wilson C (1997) Third World Countries (TWC) research publications by disciplines: a country-by-country citation analysis. Scientometrics 39: 253-266.
[9] Waworuntu B, Holsinger DD (1989) The research productivity of Indonesian professors of higher education. Higher Education 18: 167-187.
[10] Hirsch JE (2005) An index to quantify an individual's scientific research output. Proc Natl Acad Sci U S A 102: 16569-16572










