Ấn Độ qua một chuyến đi
Mấy hôm trước tôi có dịp thăm hai cơ sở nghiên cứu của Ấn Độ: Tata Institute for Fundamental Research (Viện nghiên cứu cơ bản Tata - TIFR) ở Mumbai và Indian Institute of Science (Viện khoa học Ấn Độ) ở Bangalore. Khi được mời sang Ấn Độ tôi nhận lời ngay vì Ấn Độ là tổ quốc của nhiều người tôi rất phục, ví dụ Subrahmanyan Chandrasekhar và Mahatma Gandhi. Tôi học hỏi được thêm nhiều qua chuyến đi này.
Sự phát triển kinh tế của Ấn Độ có phần nào giống của Việt Nam. Từ độc lập đến khoảng 1990 họ theo mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng từ khoảng 1990 Ấn Độ tiến hành cải cách kinh tế. Đến nay đây là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới. Mặc dù GDP trên đầu người của Ấn Độ vẫn còn rất thấp (theo thống kê của IMF, World Economic Outlook Database 2010, thì chỉ nhỉnh hơn Việt Nam một chút), nhưng nền khoa học của họ rất phát triển.
Cảm giác của tôi khi thăm viện TIFR là sự chuyển đổi từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường có lẽ đã diễn ra khá thuận lợi đối với Viện này. Những tòa nhà kiểu khu tập thể xây những năm 60-70 ở Nga và Việt Nam tồn tại một cách hài hòa bên cạnh các công trình kiến trúc hiện đại.
Cuộc hội thảo tôi tham gia ở TIFR chỉ có ba ngày nhưng đã lôi kéo được nhiều nhà khoa học ở Mỹ và Anh. Nhiều người trong số họ (phần lớn không phải là gốc Ấn Độ!) đã từng làm nghiên cứu sau tiến sĩ (postdoc) ở TIFR. TIFR lôi kéo được nhiều postdoc phương Tây: thường họ ở đây dưới một năm, sau khi tốt nghiệp PhD và trước khi làm postdoc ở nơi khác. Nhưng chỉ mấy tháng ở Ấn Độ cũng đủ làm cho họ gắn bó nhiều với đất nước này.
Khoa học cơ bản Ấn Độ có uy tín cao trong xã hội trước khi “đổi mới”. Có lẽ Việt Nam trước đây cũng đã từng như vậy. Nhưng ở Việt Nam, sự mở cửa về kinh tế đi cùng với sự giảm sút về uy tín của khoa học cơ bản. Nhiều doanh nhân Việt Nam nay không tin
Chỉ có thể đánh giá nghiên cứu cơ bản bằng chuẩn mực thế giới. Nó chỉ bõ công làm nếu ta thêm được, dù chỉ một chút thôi, vào kho tàng kiến thức của nhân loại. |
khoa học cơ bản là cần thiết, và phần lớn các sinh viên xuất sắc nhất cũng đi học các ngành khác. Tôi cảm thấy rằng, khác với Việt Nam, uy tín của khoa học cơ bản Ấn Độ không những không giảm sút khi kinh tế của họ chuyển sang kinh tế thị trường, mà còn tăng lên. Khi tôi sang Ấn Độ, nhiều người nói với tôi, tinh thần của những người làm khoa học ở đó cao hơn bao giờ hết, vì lương của họ mới được tăng đáng kể và vì chính phủ đang đầu tư mạnh mẽ vào khoa học. Cảm giác chung khi gặp giới khoa học ở đây là họ lạc quan về tương lai, “ngày mai sẽ tốt hơn hôm nay”, một cảm giác mà ở phương Tây không phải lúc nào cũng gặp.
![]() |
Con đường rợp bóng cây trong Viện khoa học Ấn Độ tại Bangalore |
Tại Bangalore tôi thăm Viện khoa học Ấn Độ (Indian Institute of Science). Đây là một viện rất “tinh túy” với lịch sử 100 năm nghiên cứu và đào tạo sau đại học. Nhưng từ năm học 2011-2012 họ bắt đầu có chương trình đào tạo cấp đại học. Với chỉ tiêu nhận vào chỉ hơn 100, hiện nay họ đã có hơn 10.000 học sinh nộp đơn! Một phần, chắc là do dân số Ấn Độ cao, nhưng sự quan tâm của công chúng vào các ngành khoa học cơ bản chắc chắn là rất đáng kể.
Bangalore sẽ là nơi cư trú của một viện khoa học mới của Ấn Độ: International Center
Một cơ sở khoa học, dù đó là một phòng thí nghiệm hay một viện hàn lâm, phải được chăm sóc tỉ mỉ như ta trồng cây… những cây nổi trội nhất bao giờ cũng mất ít nhất 10 đến 15 năm. ( Homi Bhabha ) |
for Theoretical Sciences (Trung tâm quốc tế về các khoa học lý thuyết - ICTS). Viện này được xây dựng theo mô hình của ICTP (Trung tâm quốc tế về vật lý lý thuyết) ở Trieste, Ý và Kavli Institute for Theoretical Physics (Viện Kavli về vật lý lý thuyết) ở Santa Barbara, Mỹ. Nó sẽ là nơi giao tiếp giữa khoa học Ấn Độ và khoa học thế giới, và là nơi giao tiếp giữa các ngành khoa học ở Ấn Độ. Cảm giác nổi bật là Viện này được xây dựng hết sức bài bản, với sự tham gia của cộng đồng khoa học Ấn Độ và thế giới. Việc quản lý Viện là trách nhiệm của một giám đốc và Ban quản lý gồm 12 thành viên; ngoài ra Viện còn nhận được sự giúp đỡ và giám sát chặt chẽ của một Ban tư vấn quốc tế bao gồm 13 nhà khoa học kiệt xuất của thế giới.
Theo báo chí Mỹ, mức độ tham nhũng ở Ấn Độ rất cao. Tôi có hỏi một giáo sư Ấn Độ về vấn đề này. Ông ta khẳng định đây là một vấn đề rất nghiêm trọng, nhưng nói rằng ông ta vẫn lạc quan vì Tòa án Tối cao Ấn Độ là một cơ quan chống tham nhũng rất mạnh mẽ và cũng là một cơ quan rất có quyền lực. Cũng phải nhấn mạnh Tòa án ở Ấn Độ là một trong ba nhánh độc lập của quyền lực. Điều này không khỏi làm tôi suy nghĩ. Muốn chống tham nhũng thì phải có cơ chế để chống, phải có cơ quan vừa độc l ập, vừa có quy ền và vừa muốn làm điều đó. Hi vọng vào một ngày không xa tôi cũng có thể nói một cách lạc quan như vậy về Việt Nam.
Quan sát trong ngành hẹp của tôi, người Ấn Độ về nước làm việc rất nhiều với mức lương thấp hơn nhiều lương họ được trả ở phương Tây. Trong khi đó, ở Trung Quốc có rất nhiều vị trí với lương cao ngang ở Mỹ, nhưng chỉ lôi kéo được những người gốc Trung Quốc về làm vài tháng trong một năm thôi, chứ họ không về hẳn. Tôi có hỏi một giáo sư về vấn đề này. Ông ta nói: Đó là vì Ấn Độ có dân chủ. Câu trả lời của ông cũng làm tôi suy nghĩ nhiều. Đôi khi người ta nói dân chủ chỉ là một thứ mà khi kinh tế phát triển lên cao thì dân chúng mới đòi hỏi. Nhưng ở đây ta có một thí dụ rõ ràng về tầm quan trọng của dân chủ ở các nước còn đang ở mức phát triển thấp. Trung Quốc bị thiệt thòi so với Ấn Độ về phương diện này, nhưng bù lại họ có rất nhiều tiền. Tôi thấy con đường khoa học của Việt Nam giống Trung Quốc hơn Ấn Độ, nhưng tôi tự hỏi Việt Nam làm thế nào có được nhiều tiền như Trung Quốc để lôi kéo người về?
Nếu một nước lơ là nghiên cứu cơ bản thì nước đó không tránh khỏi bị mất những nhà khoa học trẻ tài năng nhất cho các nước khác. Một nền khoa học khỏe mạnh cũng giống như một cái cây khỏe: không thể nào chặt rễ mà vẫn hy vọng cành mọc xum xuê. |
---
*GS Vật lý, Đại học Washington, Mỹ









