Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 12/03/2008 00:30 (GMT+7)

Alexandre Yersin và Việt Nam

Alexandre Émile John Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại làng Lavaux, Quận Vaud, bên bờ hồ Geneva, Thụy Sĩ.  Sau khi theo học trung học phổ thông ở Lausanne , ông sang Paristheo học y khoa tại Đại học Marburg .  Năm 1888, Yersin hoàn tất luận án tiến sĩ y khoa với đề tài bệnh lao ( La tuberculous expérimental, type Yersin).  Luận án được đánh giá cao và ông được thưởng huy chương đồng, nhưng ông nhận một cách miễn cưỡng.  Trong thời gian theo học y khoa, t rong một tai nạn bị chảy máu tay khi ông làm giải phẫu trên xác tử thi chết vì bệnh dại, ông được tiếp xúc vớiPierre-Paul-Émile Roux (1853-1933), một nhà khoa học nổi tiếng thời đó đang theo đuổi một công trình nghiên cứu về phương pháp chữa trị bệnh dại.  Roux cứu sống Yersin bằng cách tiêm thuốc do chính Roux bào chế.  Sau khi tốt nghiệp, Yersin được Roux thu nhận vào làm việc với vai trò phụ tá nghiên cứu.  Năm 1889, Yersin còn được giao thêm một nhiệm vụ dạy học môn vi sinh học tại Viện Pasteur. 


Thời gian làm phụ tá cho Giáo sư Roux, Yersin còn có cơ hội làm tại Bệnh viện nhi đồng ( Hôpital des Enfants-Malades), nơi mà bệnh bạch hầu đang là một vấn nạn y tế lớn lúc đó.  Yersin thuyết phục Roux nên nghiên cứu về bệnh này.  Roux và Yersin tiến hành một số thí nghiệm trên chuột, và từ đó phát triển phương pháp truy tìm toxin diphthérique(độc tố bạch hầu) từ nước tiểu của bệnh nhân.  Tiến thêm một bước, Yersin và Roux phát triển vắc-xin thành công dùng cho việc chữa trị bệnh bạch hầu.  Đây là một khám phá đầu tiên và một cống hiến quan trọng của Yersin cho vi sinh học.  Lúc bấy giờ, sinh học đang ở trong một “Thời đại vàng son của vi khuẩn học” – “Golden Age of Bacteriology”, một cuộc cách mạng về tiêm chủng và vắc-xin. 


Với một thành tích đầy hứa hẹn như thế, ai cũng thấy Yersin có một tương lai sáng sũa trong khoa học.  Ấy thế mà ông lại quyết định bỏ sự nghiệp nghiên cứu trước sự kinh ngạc của người thầy (Roux) để “Đông du”.  Yersin xin nghỉ việc từ Viện Pasteur và đệ đơn xin làm y sĩ cho Công ti vận chuyển đường biển, Messageries Maritimes.  Ngày 5/3/1890, ông được kêu lên phỏng vấn, và đem theo một lá thư giới thiệu của Louis Pasteur.  Với một người giới thiệu nổi tiếng như thế, Công ti lập tức nhận Yersin vào làm, dù ông chưa bao giờ có kinh nghiệm đi biển bao giờ. 


Mộ Yersin ở Nha Trang (Vietbao.vn)
Mộ Yersin ở Nha Trang (Vietbao.vn)
Tháng 9 năm 1890, Yersin đi xe lửa đến Marseille và từ đó xuống tàu Oxus đi Sài Gòn.  Yersin đến Sài Gòn ngày 15/10/1890, và ngay sau đó được giao nhiệm vụ mới trên tàuVolgachuyên chở hàng qua lại giữa Sài Gòn và Manila (Philippin).  Nhiệm vụ trên tàu Volga rất đơn giản và có khi nhàm chán, ông chỉ việc kiểm tra sức khỏe thủy thủ đoàn và cấp giấychứng nhận y tế.  Do đó, Yersin có rất nhiều thời gian để học về hàng hải và hải đồ (cartography) dưới sự chỉ dẫn của các thuyền trưởng.  Chính những kinh nghiệm học hỏi trên tàuVolga đã giúp ông trong công cuộc thám hiểm trong nội địa Đông Dương sau này.  Trên tàu Volga, Yersin còn tìm cách học tiếng Việt để ông có thể nói chuyện với thủy thủ đoàn mà phầnlớn là người Việt Nam .  


Đầu năm 1891, Công ty Messagerieshủy bỏ các chuyến tàu giữa Sài Gòn và Manila , Yersin được thuyên chuyển sang làm việc trong các chuyến tàu giữa Sài Gòn và Hải Phòng.  Tuyến đường mới này giúp ông khám phá thêm về Việt Nam .  Ông còn bỏ tiền ra mua một chiếc ca-nô để đi thám hiểm các vùng sâu xa khác trong Việt Nam .  Trong các chuyến thám hiểm ở những vùng hẻo lánh, ông trị bệnh cho dân làng hoàn toàn miễn phí.  Lòng nhân đạo của ông được thể hiện qua một lá thư ông viết về nhà ở Thụy Sĩ: “ Tôi không thể nào đòi tiền từ một bệnh nhân.”  Mùa Thu năm 1891, hợp đồng của Yersin với công ti Messagerieschấm dứt, và ông bắt đầu dành hết thì giờ để theo đuổi “nghề” thám hiểm. 


Mùa Đông năm 1892, Yersin trở về Âu châu để tham viếng gia đình ở Thụy Sĩ và gặp gỡ các đồng nghiệp cũ ở Paris , nơi mà ông mô tả “ thời tiết … quả là khắc nghiệt ghê gớm, buồn chán, và lạnh quá.”  Khi hay tin ông về Paris , Émile Roux hoan hỉ chờ đón Yersin tiếp tục nghiên cứu với ông, nhưng Yersin đã quyết định bỏ sự nghiệp nghiên cứu khoa học ở Pháp.  Quyết định của Yersin không phải vì thời tiết giá lạnh, mà vì “ Đối với một người đã từng nếm mùi tự do như tôi, đời sống trong phòng thí nghiệm ở Paris quả là một nhà tù.  Nghiên cứu khoa học rất ư là thú vị, nhưng ông Pasteur từng nói rất chính xác rằng muốn làm người thiên tài trong phòng thí nghiệm người đó phải có tiền nhiều để không phải sống trong cảnh thiếu thốn.”  Tuy nhiên, với sự tiến cử của Roux, Hiệp hội Địa lí Pháp (French Geographic Society) vinh danh Yersin bằng một bằng tưởng thưởng về chuyến thám hiểm ở Phnom Penh.  Trong chuyến quay lại Paris lần này, Yersin cho biết ông được dùng một bữa cơm tối với Louis Pasteur, và được Pasteur “ tỏ ý vui mừng về những chuyến thám hiểm của tôi.”  Đối với Yersin được dùng bữa cơm và được Pasteur khen ngợi là một vinh dự.


Tháng 1 năm 1893, Yersin quay trở lại Sài Gòn.  Lần này, Yersin được giao cho một chức vụ đúng với sở thích và ngành nghề mình: làm cao ủy y tế thuộc địa.  Một trong những qui định của công việc là phải mặc quân phục và hành xử nghiêm chỉnh trong các buổi lễ.  Nhưng Yersin không thể nào tuân hành theo qui định này, vì ông không thích mặc đồng phục.  “ Điều làm tôi khó chịu là những người thuộc cấp phải chào tôi theo cung cách quân sự, và tôi cũng phải chào các quan cấp cao hơn tôi theo cung cách như thế.  Tôi không thể nào đi ra ngoài mà không phải dơ tay chào.  Lúc nào tôi cũng phải bận tâm làm sao đừng đi ngang qua mấy ông đại tá, đại úy ,,,” Ông muốn thoát khỏi Sài Gòn.  Để thực hiện ý định này, ông tổ chức những đợt thám hiểm các vùng rừng núi thuộc miền Trung Việt Nam .  Những cuộc thám hiểm của ông thường gặp phải khó khăn, vì mưa gió, sình bùn, và lụt lội.  Trong một chuyến thám hiểm ông phải đổi cái máy hát mua ở Thụy Sĩ để có một con voi dùng làm chuyên chở hàng hóa và dụng cụ.


Trong thập niên 1890, nạn dịch cúm hoành hành ở miền Nam Trung Quốc và bắt đầu lan truyền xuống Đông Dương.  Năm 1894 cơn dịch lớn xảy ra ở Hồng Kông, với khoảng 150.000 người mắc bệnh, và tỉ lệ tử vong lên đến 95%.  Yersin được Nhà cầm quyền thuộc địa gửi đến Hồng Kông để nghiên cứu. 


Ngày 15/6/1894, Yersin đến Hồng Kông, và chứng kiến một cảnh tượng tang tóc.  Đường xá chật chội đông người thuở nào nay trống trơn; đám tang khắp nơi; những cuộc an táng vội vã ...  Ba ngày trước đó, Shibasaburo Kitasato, một nhà khoa học danh tiếng người Nhật, cũng đến Hồng Kông để nghiên cứu về bệnh dịch.  Với sự yểm trợ tài lực dồi dào của chính quyền thuộc địa Anh, Kitasato thành lập phòng thí nghiệm trong bệnh viện Kennedy Town .  Trong khi đó, Yersin chỉ có một cái kính hiển vi.  Người Anh cũng không cho ông khám nghiệm tử thi. 


Sau đó, Yersin được giới thiệu đến gặp Kitasato, và được Kitasato cho làm “quan sát viên”, tức chỉ đứng nhìn nhóm của Kitasato giảo nghiệm tử thi chứ không được trực tiếp nhúng tay vào.  Yersin hết sức ngạc nhiên về phương pháp làm việc của Katasato: họ khám nghiệm máu rất kĩ càng và cẩn thận giảo nghiệm các cơ phận của tử thi, nhưng họ lại bỏ qua chỗ sưng bạch hạch (bubo)! 


Sau 5 ngày làm quan sát viên, Yersin rất bực bội vì cảm thấy mình chẳng làm được gì.  Ông quyết định làm một việc mà y học ngày nay xem là … bất chính.  Ông nhờ người thông ngôn gốc Ý vốn có cảm tình với Pháp hối lộ những thủy thủ người Anh để mua cho ông vài xác chết (vì lúc đó các thủy thủ này có nhiệm vụ vận chuyển xác chết).  Ngày 20/6/1894 Yersin có được 1 xác chết và bắt tay vào làm việc ngay.  Ông cắt phần sưng bạch hạch và lập tức dùng kính hiển vi khám nghiệm.  Ông phát hiện “ une véritable purée de microbe”– tức một vết mờ nhạt có hình cái que với hai đầu tròn.  Khi thử nghiệm với Gram stain,kết quả âm tính, nhưng với baccillus stainthì dương tính.  Sau khi làm thí nghiệm trên 5 con chuột khác, kết quả tương tự.  Hai ngày sau, Yersin báo cho chính quyền thuộc địa Anh biết về phát hiện của mình.  Người Anh lúc đó mới cho phép ông chính thức khám nghiệm tử thi trực tiếp.  Lúc này, nhóm của Kitasato cũng bắt đầu quay sang khám nghiệm phần sưng bạch hạch và tuyên bố rằng họ đã phát hiện ra vi khuẩn gây bệnh bạch hầu. 


Theo sau là một cuộc tranh cãi ồn ào ai là người đầu tiên đã khám phá ra plague bacillus. Có người cho rằng Yersin và Katasato một cách độc lập cùng khám phá ra vi khuẩn.  Cho đến nay vẫn có một số sách giáo khoa đề là Kitasato-Yersin bacillus.  Nhưng qua các bài báo của Katasato và bình luận của các cộng sự viên với Katasato, kết quả Gram stainmà Katasato tuyên bố là plague bacillusthực là streptococcus.  Song, trong các thư từ để lại, Yersin có vẻ chẳng quan tâm gì đến cuộc tranh luận “ai trước”, mà vẫn tiếp tục nghiên cứu [1]. 


Năm sau đó (1895) Yersin trở lại Paris .  Dựa vào kết quả nghiên cứu ở Hồng Kông, ông cùng với cộng sự viên phát triển thành công vắc-xin chống bệnh dịch.  Năm 1896, vắc-xin này được dùng để chữa trị thành công một học sinh nhà dòng người Trung Quốc.  Sau khi quay về Việt Nam , ông thành lập viện nghiên cứu lấy tên người thầy cũ, gọi tên là Pasteur Institute – Viện Pasteur. Viện Pasteur gồm có một bệnh viện, một trung tâm sản xuất vắc-xin, phòng thí nghiệm, và đài thiên văn. 


Trong thời gian làm công chức và theo tàu đi lại giữa Sài Gòn và Hải Phòng, Yersin thực hiện nhiều cuộc thám hiểm.  Năm 1891 trong một lần thám hiểm vùng Tây Nguyên Việt Nam, ông khám phá ra nhiều điều bí ẩn tại đây và phát hiện một vùng đất ôn đới mà sau này chúng ta biết là Đà Lạt. 


Năm
1940, Yersin trong tình trạng sức khỏe kém quay lại Pháp lần cuối.  Nhưng chỉ lưu lại Pháp một năm; năm 1941 ông quay về Nha Trang, mảnh đất ông yêu quí.  Ngày 1 tháng 3 năm 1943, Yersin đau bệnh và qua đời một cách cô đơn tại nhà riêng ở Suối Giao (Nha Trang. Ông thọ 79 tuổi.  Trong di chúc để lại, ông muốn được chôn cất tại Nha Trang để gần những người ông yêu mến.  Cho đến nay, cứ đến ngày 1 tháng 3 hàng năm,dân chúng trong vùng vẫn viếng mộ ông để tỏ lòng mến mộ và kính phục cho một tấm lòng khoa học và nhân đạo. 


Trong danh sách những người Pháp có ảnh hưởng lớn đến lịch sử Việt Nam, có lẽ Yersin là một người mà công trạng và di sản của ông chẳng những không ai chất vấn mà còn được mến mộ.  Tại một số thành phố lớn như Đà Lạt, Hà Nội, hay Thành phố Hồ Chí Minh đều có con đường mang tên ông.  Di sản khoa học của ông vẫn còn tồn tại với những trường mang tên ông, và nhất là Viện Pasteur.  Yersin quả là một nhà khoa học đã đem hai chữ Việt Nam và Nha Trang vào lịch sử vi sinh học trên thế giới.


Chú thích:


[1]  Chi tiết về việc làm của Yersin tại Hồng Kông được trích dẫn từ bài viết “Alexandre Yersin and the plague bacillus” của Tom Solomon, đăng trên [Tập san Journal of Tropical Medicine and Hygiene năm 1995, số 98, trang 209-12.


Cống hiến của Yersin cho khoa học có thể tóm lược trong các công trình khảo cứu sau đây:


Bệnh bạch hầu:


Contribution à l"étude de la diphtérie.
Viết chung với Emile Roux.  Annales de l"Institut Pasteur, 1888, 2 (12): 629-661.

Contribution à l’étude de la diphtérie.Annales de l’Institut Pasteur, 1888, 2: 629-661;

Contribution à l"étude de la diphtérie. Deuxième mémoire.Viết chung với Emile Roux, Annales de l"Institut Pasteur, 1889, 3 (6): 273-288.

Contribution à l"étude de la diphtérie. Troisième mémoire.Viết chung với Emile Roux. Annales de l"Institut Pasteur, 1890, 4 (7): 385-426.


Về bệnh lao


De l"action de quelques antiseptiques et de la chaleur sur le bacille de la tuberculose.
Annales de l"Institut Pasteur, 1888, 2: 60-65.

Etude sur le développement du tubercule expérimental.Thèse de la faculté de Médecine de Paris 26 mai 1888. Annales de l"Institut Pasteur, 1888, 2: 245-266.

Etude sur le développement du tubercule expérimentale. Sceaux, Charaire et fils, 1888, 31 pages.

Analyse de l"article de Stschastny : sur les relations entre les bacilles de la tuberculose et les cellules.Annales de l"Institut Pasteur, 1889, 3 (2): 93-94.

Analyse de l"article de H. Kuhne : sur la coloration des bacilles dans les nodules morveux.Annales de l"Institut Pasteur, 1889, 3 (1): 44-45.


Về bệnh dịch


Sur la peste de Hong Kong.
Communication à L"Académie des Sciences le 30-7-1894.
Comptes rendus de l"Académie des Sciences, 1894, 119: 356.

La peste bubonique à Hong Kong. Annales de l"Institut Pasteur, 1894, 8: 662-667.

La peste bubonique à Hong Kong. Archives de Médecine Navale, 1894, 62: 256-261.

La peste bubonique. Deuxième note.With A. Calmette and A. Borrel.  Annales de l"Institut Pasteur, 1895, 9: 589-592.

La peste bubonique. Deuxième note. Archives de Médecine Navale, 1895, 64: 49-52.

Sur la peste (sérothérapie). Annales de l"Institut Pasteur, 1897, 11: 81-93.

Rapport sur la peste aux Indes. Archives de Médecine Navale, 1897, 68: 366-372.

Historique du premier cas de peste traité et guéri par l"emploi du sérum antipesteux.Bulletin de l"Académie de Médecine, 1897, 36: 195-199.

Rapport sur la peste bubonique de Nha Trang ( Annam ). Annales de l"Institut Pasteur, 1899, 13: 251-261.

L"épidémie de peste de Nha Trang de juin à octobre 1898. Annales d"Hygiène et de Médecine Coloniales, 1899, 2: 378-390.

Vaccination par atténuation du coccobacille de la peste. Viết chung với C. Carré. 13e Congrés International de Médecine, Paris, 1900.

Les épidémies de peste en Extrême-Orient. In collaboration with Paul-Louis Simond (1858-1947). 13e Congrés International de Médecine, Paris, 1900.


Về bệnh truyền nhiễm trong gia cầm


Notes succintes sur une épizootie de buffles, sur la typhomalarienne et la bilieuse hématurique.
Archives de Médecine Navale, 1895, 64: 49-52.

Note sur la fièvre bilieuse hématurique. Comptes Rendus de la Société de Biologie, 1895, 47: 447-449.

Expériences sur la peste bovine. Bulletin Economique de l"Indochine, 1898, 2: 245.

Traitement de la peste bovine.Viết chung với C. Carré and Fraimbault.

Annales d"Hygiène et de Médecine Coloniales, 1899, 2: 175-182.

Note sur les épizooties des bovins en Indochine. Annales d"Hygiène et de Médecine Coloniales, 1903, 6: 467-469.

Etudes sur quelques épizooties de l"Indochine. Annales de l"Institut Pasteur, 1904, 18 (7): 417-449.


Về Viện Pasteur tại Nha Trang


L"Institut Pasteur de Nha Trang, Annam .
 Annales d"Hygiène et de Médecine Coloniales, 1900, 3: 506-520.

L"Institut Pasteur de Nha Trang, Annam . Bulletin Economique de l"Indochine, 1900: 253-265.


Về thủy thổ


La station d"altitude du Hon Ba ( Annam ), les essais agricoles qui y sont poursuivis.
Revue de Botanique Appliquée et d"Agriculture Coloniale, 1925, 5: 574-582.

Essais d"acclimatation de l"arbre à quinquina en Indochine. Première note.Revue de botanique appliquée et d"agriculture coloniale, 1927, 7: 250-254 and 331-338.

Note sur divers essais agricoles entrepris aux stations d"altitude des Instituts Pasteur d"Indochine.Deuxième note. In collaboration with A. Lambert. Revue de botanique appliquée et d"agriculture coloniale, 1927, 7: 809-816.

Note sur divers essais agricoles entrepris aux stations d"altitude des Instituts Pasteur d"Indochine. Troisième note.In collaboration with A. Lambert.  Revue de botanique appliquée et d"agriculture coloniale,1928, 8: 119-122.

Essais d"acclimatation de l"arbre à quinquina en Indochine. Archives de l"Institut Pasteur d"Indochine, 1928, 8: 5-22.

Note sur divers essais agricoles entrepris aux stations d"altitude des Instituts Pasteur d"Indochine. Quatrième note.In collaboration with A. Lambert. Revue de botanique appliquée et d"agriculture coloniale, 1931, 11: 301-304.

Longue survie d"hévéas brisés par un typhon. Comptes rendus de l"Académie des Sciences, 1932, 194: 1620.

Essais d"acclimatation de l"arbre à quinquina en Indochine. Cinquième note. In collaboration with A. Lambert.  Revue de Botanique Appliquée et d"Agriculture coloniale, 1935, 15: 225-234.

Note sur les essais d"acclimatation des quinquinas entrepris en Indochine par l"Institut pasteur. Bulletin de la Société Médico-chirurgicale de l"Indochine, 1936: 594-595.

Essais d"acclimatation de l"arbre à quinquina en Indochine. Sixième note. In collaboration with A. Lambert.  Revue de Botanique Appliquée et d"Agriculture Coloniale, 1939, 19: 237-242.


Về các lĩnh vực khoa học khác


Tumeur mélanique de la plante du pied.
 Annales de l"Institut Pasteur, 1887, 1 (3): 142.

Analyses de trois articles : P. Liborius : « Recherches sur l"action désinfectante de la chaux », O. Bujwid : « une réaction chimique pour les bacilles du choléra », Fischer : « Recherches bactériologiques pendant un voyage aux Indes. Annales de l"Institut Pasteur, 1887, 1 (6): 318-319.

Note sur un cas de fièvre récurrente en Indochine. Comptes rendus de la Société de Biologie, 1906, 60: 1037-1038.

Une maladie rappelant le typhus exanthématique observée en Indochine. In collaboration with J. J. Vassal.  Bulletin de la Société de Pathologie Exotique, 1908, 1: 156-164.

La Simaroubine dans la dysenterie amibienne. Written with L. Braudat and Lalong-Bonnaire. Comptes rendus des travaux du troisième Congrés Biennal de la Far Eastern Association of Tropical Medicine, Saigon, 1913: 101-105.

Quelques observations d"électricité atmosphérique en Indochine. Comptes rendus de l"Académie des Sciences, 1930, 191: 366-368.

  Nguồn: ykhoanet.com

Xem Thêm

Tin mới

Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.
Quảng Ngãi: Tổ chức Hội nghị tuyên truyền cho trí thức
Chiều 9/5, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức và Hội viên của Câu lạc bộ Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề “Tình hình Biển Đông gần đây và chính sách của Việt Nam”.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Phát động Chiến dịch phục hồi rừng “Rừng xanh lên 2025” tại Sơn La
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5 và Ngày Môi trường Thế giới 05/06, ngày 25/5, Liên Hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã phối hợp cùng Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hạt Kiểm lâm Vân Hồ, Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển cộng đồng (RIC) và chính quyền địa phương phát động trồng hơn 18.000 cây bản địa tại hai xã Song Khủa và Suối Bàng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.
VinFuture 2025 nhận 1.705 đề cử toàn cầu – tăng 12 lần số đối tác đề cử sau 5 mùa giải
Giải thưởng Khoa học Công nghệ toàn cầu VinFuture đã chính thức khép lại vòng đề cử cho mùa giải thứ 5 với 1.705 hồ sơ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, số lượng đối tác đề cử chính thức của Giải thưởng đã tăng trưởng vượt bậc, đạt 14.772 đối tác.
Hỗ trợ thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững
Dự án Hỗ trợ phục hồi rừng tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình do Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên Việt là Chủ dự án với mục tiêu hỗ trợ việc thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững cho cộng đồng.
Vĩnh Long: Tập huấn nâng cao nhận thức về ứng phó khí hậu gắn với kinh tế xanh
Sáng ngày 23/05, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) phối hợp với Chi cục Môi trường và Kiểm lâm – Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh, Đảng ủy, UBND xã Thuận Thới, Hợp tác Xã Thuận Thới tổ chức Hội nghị “Tập huấn tuyên truyền nâng cao nhận thức về công tác, ứng phó khí hậu gắn với kinh tế xanh”.
Liên hiệp hội Hà Tĩnh: 30 năm một chặng đường phát triển
Kể từ khi mới thành lập đến nay, hệ thống tổ chức của Liên hiệp hội tỉnh Hà Tĩnh không ngừng được bổ sung, kiện toàn và phát triển. Bên cạnh việc xây dựng và phát triển tổ chức, Liên hiệp hội đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ, khắc phục thách thức, nắm bắt cơ hội để tạo động lực vươn lên.
Đoàn đại biểu VUSTA viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chiều ngày 24/5/2025, đoàn đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam do TSKH. Phan Xuân Dũng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam làm trưởng đoàn đã tới kính viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Thanh Hoá: Tập huấn Bình dân học vụ số cho cán bộ, hội viên
Ngày 22/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn về Công nghệ số ứng dụng trong sản xuất và đời sống (Bình dân học vụ số) cho gần 200 cán bộ, hội viên của các hội thành viên, trung tâm trực thuộc, đơn vị liên kết trong hệ thống Liên hiệp hội.