5 năm hoạt động của một hội khoa học chuyên ngành (Lược thuật và tham kiến dự thảo báo cáo của Ban Chấp hành nhiệm kỳ III Hội Dân tộc học Việt Nam và một số báo cáo tổng kết liên quan)
·Về công tác phát triển Hội. Trong nhiệm kỳ III vừa qua, Hội đã thu hút được thêm 100 hội viên, đưa tổng số hội viên lên 450 người. Chi hội ở Bạc Liêu mới được thành lập và sắp tới sẽ ra đời một số Chi hội tại các tỉnh Hà Giang, Bến Tre...
Trong nhiệm kỳ III, Hội đồng Thi đua khen thưởng của Hội đã đề nghị Liên hiệp Hội tặng huy chương “Vì sự nghiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật”cho 20 thành viên có nhiều đóng góp trong thành tích xây dựng Hội.
Năm 2003, Hội cũng đã tổ chức việc xét và trao giải thưởng dân tộc học lần đầu tiên với một giải nhất, hai giải nhì và 2 giải khuyến khích cho 5 ấn phẩm của hội viên dự giải.
Công tác phát triển Hội được đẩy mạnh ở thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay đã có khoảng 300 người (theo báo cáo của Pgs. Mạc Đường) hoạt động trong 12 chi hội và 6 trung tâm nghiệp vụ. Cuối năm 2002, Hội DTH TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức đại hội và bầu ra ban chấp hành của nhiệm kỳ II (2002 - 2007), được chủ tịch Hội DTHVN ra quyết định công nhận ngày 12-6-2003. Nổi bật là Trung tâm Bảo trợ sinh viên dân tộc ít ngườiđã có những hoạt động thiết thực nhằm vào thế hệ trẻ trong các dân tộc ít người.
Đặc biệt năm 2006 vừa qua, Hội DTHVN đã phối hợp với Bảo tàng DTH tổ chức phòng trưng bày - giới thiệu về cố Gs. Từ Chi. Việc làm này đã gây nhiều ấn tượng tốt về một nhân cách khoa học đã có những đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp dân tộc học.
Trong thời gian qua, Hội cũng đã hoàn tất việc tập hợp các bản thảo và đã cho xuất bản một tuyển tập các công trình nghiên cứu của Gs. Bế Viết Đẳng (một trong những sáng lập viên của Hội và là Chủ tịch Hội đầu tiên) nhằm tôn vinh và tưởng nhớ những đóng góp của ông cho ngành Dân tộc học.
Việc cấp học bổng và khen thưởng cho sinh viên ngành Nhân học tại khoa Sử trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, cho đến nay, vẫn tiếp tục được duy trì. Đồng thời, Hội cũng quan tâm đến các nhà dân tộc học cao tuổi.
·Nghiên cứu và ứng dụng khoa học. Hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học chủ yếu được đẩy mạnh ở các Chi hội thuộc những đơn vị nghiên cứu và giảng dạy ở bậc đại học như Viện Dân tộc học, Bảo tàng Dân tộc học, Bộ môn Nhân học thuộc khoa Sử trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, Trung tâm Dân tộc học và Tôn giáo tại TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học KHXH&NV tại TP. Hồ Chí Minh, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc tại TP. Thái Nguyên, Sở Văn hóa - Thông tin Lào Cai và các trung tâm trực thuộc Hội DTHVN, Thành hội Hồ Chí Minh... Nhiều dự án, đề tài nghiên cứu được triển khai thực hiện ở các chi hội nói trên. Đó là những dự án, đề tài nghiên cứu về kinh tế, xã hội, văn hóa truyền thống và những sự kế thừa, biến đổi hiện nay; là những nghiên cứu về môi trường, về các làng nghề truyền thống, về phát triển bền vững, di họa của chiến tranh, tệ nạn xã hội, đói nghèo, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; là những nghiên cứu về từng dân tộc cụ thể, về xác định thành phần dân tộc trong bối cảnh mới về sở hữu đất đai, luật tục trong các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ; về cộng đồng người Chăm, Hoa, Khơ-me ở Nam Trung Bộ, thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long, v.v...
Vừa với tư cách là cán bộ nghiên cứu, giảng dạy tại các Viện, các cơ sở quản lý hay đào tạo của nhà nước, vừa với tư cách là hội viên của một hội khoa học chuyên ngành, các hội viên Hội DTHVN tại những đơn vị nói trên đã tham gia, tư vấn, phản biện cho nhiều dự án, đề tài, cấp nhà nước, cấp bộ liên quan đến những vấn đề bức thiết về dân tộc trên cả hai phương diện: văn hóa và xã hội đương đại.
Từ năm 2002, Hội cũng triển khai nghiên cứu đề tài về môi trường của Liên hiệp hội, nhưng gần đây các bản thảo mới được hoàn thiện. Do việc thực hiện đề tài không đảm bảo về mặt thời gian nên đã làm ảnh hưởng không ít đến các đề tài khác của Liên hiệp hội.
·Việc truyền bá kiến thức dân tộc học. Đóng vai trò cơ yếu và thường xuyên trong việc truyền bá kiến thức dân tộc học, nhân học là ở những Chi hội thuộc các trường đại học, các viện nghiên cứu và các bảo tàng văn hóa dân tộc. Đó là những địa chỉ mà các hội viên, với chức năng của mình, có thể phát huy tối đa những thành quả nghiên cứu để truyền bá kiến thức cho công chúng và thế hệ trẻ.
Tạp chí Dân tộc & Thời đạilà cơ quan thông tin - ngôn luận và truyền bá kiến thức của Hội DTHVN đến nay đã 14 năm tuổi. Sau nhiều lần củng cố tổ chức, Ban Biên tập mới đã đi vào hoạt động thường xuyên, tương đối ổn định và có hiệu quả từ cuối năm 1998, thuộc nhiệm kỳ II với việc phát hành bộ mới, cho đến đại hội lần này đã xuất bản được gần 100 kỳ tạp chí.
Trong nhiều năm qua, nhất là 5 năm gần đây, Dân tộc & Thời đạiđã tạo được chỗ đứng trong báo giới Liên hiệp hội và báo giới Việt Nam với một sắc diện riêng thông qua các chuyên mục: Hành trình vào dân tộc học, Già làng kể chuyện, Muôn màu xứ sở, Văn hóa cổ truyền, Danh nhân & Thắng tíchv.v...
Từ đầu năm 2005, Tạp chí Dân tộc & Thời đạinằm trong danh sách 11 tạp chí (trong tổng số 155 đầu báo) của Liên hiệp hội được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nướcra quyết định cho tính điểm công trình(từ 0 đến 1) đối với những bài nghiên cứu công bố trên diễn đàn này.
Ban Biên tập của Dân tộc & Thời đạiluôn quan tầm tới các nhà dân tộc học bước lên chiếu thất tuần; sẵn sàng giới thiệu, quảng bá ấn phẩm và giúp đỡ các hội viên trẻ chuẩn bị điều kiện để thi vào cao học, làm nghiên cứu sinh hay bảo vệ luận án thạc sĩ, tiến sĩ...
Từ năm 2002 đến cuối năm 2006, Dân tộc & Thời đạilà một trong 17 đầu báo và tạp chí được Ủy ban Dân tộc đặt mua với số lượng lớn để cung cấp cho miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số theo quyết định 1637 của Thủ tướng Chính phủ.
Giữa năm 2005, Tạp chí Dân tộc & Thời đạiphối hợp với Hội DTH TP. Hồ Chí Minh để thử nghiệm xuất bản kỳ thứ 2 trong tháng, nhưng mới chỉ ấn hành được 3 kỳ thì phải dừng lại do có nhiều bất cập về nghiệp vụ.
Củng cố và kiện toàn bộ phận lãnh đạo tạp chí, tạo một cơ chế thoáng, phù hợp đối với đơn vị tự hạch toán kinh doanh như các trung tâm trực thuộc Hội, giúp cho Tòa soạn đảm đương được nhiệm vụ trong giai đoạn mới là việc làm cấp bách hiện nay của Hội.
Tháng 6 năm 2004, sau nhiều nỗ lực của một số cán bộ Hội và một số hội viên kiêm nhiệm, Hội DTHVN đã cho ra mắt Website của mình, tạo nên mang lưới liên kết toàn quốc giữa các nhà dân tộc học và với các nhà khoa học khác có liên quan. Một số tạp chí đã đồng ý cung cấp toàn bộ bài cho Website của Hội. Tính đến ngày 16-10-2006, đã có 22.400 lượt người truy cập thông tin trên trang điện tử này.
5 năm qua, Hội đã phối hợp với Bảo tàng DTH tổ chức một số hội thảo khoa học, trong đó có 2 lần hội thảo về phim DTH (năm 2002 và 2005) nhằm nâng cao chất lượng nội dung và hình ảnh phục vụ công chúng, đồng thời mở một số khóa tập huấn như: Tín ngưỡng bản địa (năm 2004), Tính dân tộc và quan hệ dân tộc ở Đông Nam Á (năm 2005) do các giáo sư, chuyên gia Mỹ và Thụy Điển giảng dạy với sự trợ lý của một số nhà nhân học trẻ Việt Nam. Năm 2003 và 2004 Hội cũng tổ chức được 7 buổi tọa đàm về kinh nghiệm công tác ở miền núi, vùng đồng bào các dân tộc ít người do những cán bộ lão thành trình bày, đã thu hút nhiều hội viên tham dự.
·Hoạt động đa dạng của các trung tâm trực thuộc. Cho đến nay, Hội có 8 trung tâm trực thuộc và Hội DTH TP. Hồ Chí Minh có 5 trung tâm, hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau theo quy định của Hội và theo khuôn khổ của pháp luật. Các trung tâm đều đã thực sự làm cho hoạt động và tác dụng của Hội trở nên đa dạng, đa chiều, thiết thực đối với các làng bản, các gia đình, thậm chí đối với từng con người cụ thể trong các dân tộc thiểu số. Họat động của các trung tâm hoàn toàn là do tìm kiếm, sáng tạo mà có, không dựa vào ngân sách nhà nước, tự nguyện phục vụ nhân dân, phục vụ miền núi, phục vụ các cộng đồng đói nghèo.
Nếu như Trung tâm Craft-Linkđã tạo nên nhiều dự án phát triển ở miền núi và làm sáng giá những sản phẩm thủ công truyền thống trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số để quảng bá ở trong và ngoài nước thì Trung tâm Nghiên cứu, hỗ trợ, phát triển làng nghề... lại tìm kiếm những dự án tạo việc làm cho những cộng đồng nghèo đói, những số phận là di họa của các tệ nạn xã hội (như phụ nữ bị lừa gạt bán qua biên giới) để có thể tái nhập cộng đồng.
Trong khi Trung tâm Y sinh miền núi và dân tộcđi tìm đối tác từ Hoa Kỳ (Tổ chức Wishh) để phát triển các sản phẩm dinh dưỡng từ cây đậu tương nhằm hỗ trợ cho các trẻ em nghèo, suy dinh dưỡng ở Hòa Bình, thì Trung tâm Hỗ trợ phát triển dân tộctại TP. Hồ Chí Minh lại chú trọng đến các hoạt động từ thiện: khám bệnh, phát thuốc miễn phí và tặng quà cho người nghèo ở những vùng sâu, vùng xa; theo đuổi chủ trương lập “Nhà dưỡng lão”, xây trường dạy nghề cho con em đồng bào dân tộc thiểu số.
Trung tâm Thông tin văn hóa các dân tộcbước đầu liên kết với một số tỉnh miền núi để nghiên cứu, biên soạn và xuất bản các chuyên khảo dân tộc học theo từng tộc người, theo từng đơn vị hành chính và theo từng chuyên đề, đến nay đã ấn hành được 2 đầu sách, và đang chuẩn bị phát hành 3 đầu sách khác.
Trung tâm Nghiên cứu, ứng dụng phả họcđã tổ chức sưu tầm và biên dịch một số gia phả của dòng họ, đồng thời chú trọng đến văn hóa truyền thống ở các làng xã để từ đó, xây dựng những công trình xuất bản.
Tại TP. Hồ Chí Minh, Trung tâm Bảo trợ sinh viên dân tộc ít ngườiđã có nhiều chương trình vận động tài trợ để giúp đỡ những sinh viên nghèo là người Chăm, Khơ-me, Hoa và con em các dân tộc bản địa Tây Nguyên đang theo học, dưới hình thức: cấp học bổng, qùa tặng, suất học miễn phí, trợ giúp phương tiện học tập, sinh hoạt, trợ giúp nâng cao chất lượng học tập...
Các trung tâm còn lại thì chú trọng đến việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, giúp thiệu, kế thừa những di sản văn hóa truyền thống trong các dân tộc...
·Công tác đối ngoại. Trong thời gian qua, Hội DTHVN cùng với Viện Dân tộc học, Bộ môn Nhân học thuộc Khoa Sử Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội và Bộ môn Dân tộc học thuộc Khoa Sử Trường Đại học KHXH&NV thành phố Hồ Chí Minh thực hiện dự án “Đổi mới và nâng cao chất lượng nghiên cứu, đào tạo nhân học”do quỹ Ford tài trợ. Dự án đã giúp cho việc tăng cường liên kết với các cơ sở nghiên cứu và đào tạo nhân học, góp phần nâng cao năng lực hội viên thông qua các chương trình hội thảo, tập huấn và những thông tin trên tạp chí của Hội.
Năm 2001 Hội DTH TP. Hồ Chí Minh đã làm thủ tục cho một nhóm hội viên đi dự hội thảo khoa học ở Malaysia . Và Hội cũng đã có những quan hệ với giới nghiên cứu tại Bảo tàng Dân tộc học Vân Nam (Trung Hoa), Bảo tàng Dân tộc học Thái Lan và Viện KHXH Hoàng gia Campuchia, Hội Nhân học Mỹ...
Nói chung, hoạt động đối ngoại trong nhiệm kỳ vừa qua tuy đã đạt được một số kết quả nhưng chưa thúc đẩy được sự phát triển cần có, xứng với tiềm năng của Hội, chưa liên kết được với các tổ chức quốc tế và các đồng nghiệp nước ngoài.
Đến nay, Hội cũng đã hoàn thiện các thủ tục về mặt pháp lý để có thể trực tiếp mời các đoàn khách quốc tế đến Việt Nam và cử hội viên có nhu cầu ra nước ngoài nghiên cứu, học tập, tham gia các hội thảo khoa học.
Dự thảo báo cáo của BCH khóa III cũng chỉ ra một số yếu kém và cho rằng: “Nguyên nhân của những yếu kém và tồn tại là do các chức danh của Hội thì nhiều, nhưng thực chất không dành nhiều thời gian và tâm sức cho hoạt động của Hội”.
Hy vọng Đại hội IV lần này sẽ bầu ra một Ban Chấp hành mới của nhiệm kỳ 2006 - 2011 có đủ nhiệt thành, năng lực và thời gian để chăm lo đến công tác Hội, khắc phục được những khiếm khuyết, yếu kém và bất cập của nhiệm kỳ vừa qua, đưa Hội Dân tộc học Việt Nam vượt qua khó khăn, phát triển về mọi mặt trong giai đoạn tới.
Nguồn: hoidantochoc.org.vn (29/11/06)








