20 sự thật về Albert Einstein
Einstein là một cậu bé chậm nói?
Albert Einstein ngày bé và em gái Maja. |
Ngoài ra Einstein còn có thái độ rất ngỗ ngược với các nhà chức trách. Có lần một thầy hiệu trưởng đã tống cổ ông ra khỏi trường vì ngỗ ngược và chậm hiểu. Nhưng chính những điều đó đã làm nên một Einstein thiên tài. Thái độ bướng bỉnh của ông với các nhà chức trách khiến ông đưa ra những câu hỏi rất thông minh; cũng như việc chậm nói đã làm ông không ngừng tò mò về những điều hết sức bình thường, như không gian và thời gian, những thứ mà người lớn luôn coi là điều dĩ nhiên phải biết. Lên năm tuổi, cha ông đưa cho ông một cái la bàn, và kể từ đó cho đến hết cuộc đời mình ông luôn luôn băn khoăn về đặc điểm của từ trường.
2. Einstein mắc chứng tự kỷ?
Một số nhà nghiên cứu cho rằng thời nhỏ Einstein mắc chứng tự kỷ. Chính Simon Baron - Cohen, giám đốc trung tâm nghiên cứu chứng tự kỷ ở Đại học Cambridge là một trong số đó. Ông cho rằng chứng tự kỷ liên quan đến “xu hướng hệ thống hoá rất cao và xu hướng đồng cảm đặc biệt kém”. Ông chỉ ra rằng chính xu hướng đó “giải thích cho khả năng đặc biệt giỏi ở những môn như toán học, âm nhạc và hội hoạ của người mắc chứng tự kỷ. Tất cả những lĩnh vực trên đều cần đến khả năng hệ thống hoá cao.”
Tuy nhiên, từ khi còn nhỏ, Einstein đã kết thân với nhiều bạn, có những mối quan hệ sâu sắc, thích tán gẫu, và giao tiếp tốt bằng lời nói với mọi người cũng như biết đồng cảm với bạn bè hay con người nói chung.
3. Einstein thi trượt toán?
Nhiều người đến nay vẫn đinh ninh rằng khi còn đi học Einstein từng thi trượt môn toán. Nếu tìm kiếm trên Google với từ khoá Einstein failed math, thì có tới hơn 5.000 mục tham khảo. Thậm chí, thông tin trên còn là tiền để tạo nên mục “Tin hay không tin của Ripley” nổi tiếng trên báo.
Năm 1935, một giáo sỹ Do thái ở Princetonđưa cho ông xem mục của Ripley với dòng chữ “nhà toán học vĩ đại nhất đã trượt môn toán.” Einstein đã cười lớn: “Tôi chưa bao giờ thi trượt môn toán cả. Trước 15 tuổi, tôi đã thành thạo những phép tính vi phân và tích phân.” Ở trường tiểu học, ông luôn đứng đầu lớp và luôn “học vượt quá yêu cầu của trường” đối với môn toán học. Lên 12 tuổi, em gái của ông nhớ lại, “Einstein đã thích giải những vấn đề khó trong môn số học ứng dụng.” Và Einstein đã quyết định tự học hình học và đại số trước. Cha mẹ Einstein đã mua trước sách cho ông để ông có thể học trong dịp nghỉ hè. Không những ông học được những mệnh đề trong những cuốn sách đó mà còn cố gắng tự chứng minh những định lý mới. Thậm chí ông còn tự đưa ra cách chứng minh riêng cho định lý Pitago.
4. Einstein nghĩ bằng hình ảnh nhiều hơn là bằng lời nói?
Đúng như vậy. Các phát minh vĩ đại của ông đều có được nhờ những thí nghiệm tưởng tượng trong đầu ông, chứ không phải là ở trong phòng thí nghiệm. Người ta gọi đó là Gedankenexperiment- thí nghiệm trong tư duy. Mới 16 tuổi, ông đã cố gắng tưởng tượng trong đầu óc rằng mình sẽ như thế nào nếu đi dọc theo một đường ánh sáng? Nếu đuổi kịp tốc độ của ánh sáng thì liệu sóng ánh sáng có đứng yên so với con người? Nhưng phương trình nổi tiếng của Maxwell mô tả sóng điện từ lại không cho phép điều đó. Einstein biết toán học là ngôn ngữ dùng để diễn tả những điều kỳ diệu của tự nhiên. Vì vậy ông có thể hình dung rõ các phương trình được phản chiếu trong thực tế như thế nào. Và 10 năm sau đó, ông đã nung nấu với thí nghiệm trong đầu mình cho đến ngày đưa ra thuyết tương đối hẹp.
5. Einstein đã sử dụng bức tranh ý nghĩ nào cho thuyết tương đối hẹp?
Einstein thăm đài quan sát Mount Wilson, nơi có chiếc kính viễn vọng lớn nhất thế giới thời bấy giờ. |
6. Thí nghiệm bằng suy nghĩ nào đã đưa Einstein đến với thuyết tương đối rộng?
Ông tưởng tượng một người đàn ông rơi tự do. Để biết người đó nhìn thấy gì, hãy tưởng tượng một người ở trong một buồng thang máy đóng kín đang chạy xuống dưới. Anh ta sẽ bay lơ lửng trong buồng thang máy và bất kỳ thứ gì anh ta lôi ở trong túi ra và đánh rơi cũng trôi nổi tự do cạnh anh ta, giống như anh ta đứng im trong một phòng đóng kín, không trọng lực ở ngoài không gian vậy.
Mặt khác, hãy tưởng tượng một người phụ nữ ở trong một phòng đóng kín, đang rảo bước vào không gian, không có trọng lực. Cô sẽ có cảm giác bị kéo xuống sàn nhà, thể như cô bị hút bởi trọng lực vậy. Từ suy nghĩ về sự cân bằng giữa trọng lực và gia tốc, Einstein đã xây dựng nên thuyết tương đối rộng.
7. Có bức tranh ý nghĩ nào miêu tả kết luận của Einstein về thuyết tương đối rộng?
Bức ảnh Einstein thè lưỡi nổi tiếng chụp vào ngày sinh nhật thứ 72, ngày 14 tháng 3 năm 1951. |
8. Năm tuyệt vời nhất đối với Einstein?
Bản viết tay công trình nghiên cứu của Einstein năm 1905. |
9. Đời sống riêng của Einstein lúc đó ra sao?
Albert Einstein đưa con gái Margot và Dimitri Marianoff tới phòng đăng ký kết hôn. |
10. Mileva Mari có đáng được thưởng với tư cách là một cộng tác?
Einstein cùng vợ Mari và con trai. |
11.Thuyết tương đối của Einstein được đón nhận như thế nào?
Đầu tiên giới khoa học đều nghi ngờ về tính đúng đắn của thuyết tương đối rộng. Nhưng trong lần xảy ra hiện tượng nhật thực năm 1919, các nhà khoa học đã đo được ánh sáng phát ra từ những ngôi sao khi đi ngang qua gần mặt trời đã bị trọng lực của mặt trời uốn cong như thế nào. Đến lúc đó thuyết của Einstein mới được công nhận. Lần đầu tiên tờ New York Times giật dòng tít: “Tất cả ánh sáng đều bị uốn cong trên thiên đường/Giới khoa học ít nhiều đều tò mò về kết quả quan sát nhật thực/Thuyết của Einstein đã chiến thắng.” Einstein kể từ đó trở thành một siêu minh tinh trong giới khoa học, thần tượng của nhân loại và một trong những gương mặt nổi tiếng nhất hành tinh. Công chúng đua nhau nghiên cứu học thuyết của ông, đánh giá ông là một thiên tài và phong ông là một vị thánh sống.
12. Tại sao Einstein phải chờ rất lâu mới nhận được giải Nobel?
Đầu tiên các bài báo năm 1905 của ông bị đánh giá là thất bại và không được chứng thực. Ông được đề cử cho giải Nobel lần đầu tiên là vào năm 1910. Người đề cử chính là Wilhelm Ostwald, người đoạt giải Nobel hoá học, và đã từ chối nhận Einstein vào làm việc chín năm về trước. Ostwald trích dẫn thuyết tương đối hẹp, nhưng hội đồng trao giải Nobel Thuỵ Điển lại băn khoăn về điều khoản trong di chúc của Alfred Nobel, đó là giải thưởng phải là “phát minh hoặc khám phá quan trọng nhất”. Có vẻ như thuyết tương đối của Einstein không hoàn toàn như vậy.
Nhưng kết quả quan sát nhật thực tháng 11 - 1919 đã khẳng định một số phần trong thuyết của Einstein. Và lẽ ra năm 1920 đã trở thành năm của Einstein. Nhưng nó đã bị chính trị can thiệp. Cho đến trước thời điểm này, Einstein không nhận được giải Nobel chỉ là xét về mặt khoa học: công trình của ông chỉ đơn thuần là lý thuyết, nó không phải là “phát hiện” ra định luật gì mới. Sau khi quan sát hiện tượng nhật thực, thì những lý lẽ phản bác lại ông lại nhuốm màu kỳ thị văn hoá và cá nhân, trong đó có cả chủ nghĩa bài Do Thái. Vì vậy giải Nobel 1920 đã rơi vào tay đối thủ của Einstein: Charles - Edouard Guillaume.
Nhưng đến năm 1921, sự ủng hộ của công chúng đối với Einstein đã lớn mạnh đủ để ông có thể giành giải Nobel. Tuy nhiên, Uỷ ban trao giải Nobel vẫn chưa sẵn sàng. Cuối cùng, phải nhờ đến “phao cứu hộ”, Einstein mới có được giải Nobel. Phao cứu hộ đó chính là Carl Wilhelm Oseen, một nhà vật lý lý thuyết ở trường Đại học Uppsala , người có chân trong Uỷ ban trao giải thưởng Nobel vào năm 1922. Ông đã nhận ra rằng toàn bộ vấn đề thuyết tương đối gây ra rất nhiều tranh cãi, vì vậy tốt hơn là trao cho Einstein một giải khác. Và ông đã tích cực vận động để trao cho Einstein giải “phát hiện định luật hiệu ứng quang điện”. Từng chữ trong tên giải thưởng đã được tính toán rất kỹ. Như vậy, cuối cùng đề cử cho thuyết tương đối đã không được gì. Trên thực tế, giải thưởng cũng không phải là ghi nhận cho thuyết lượng tử ánh sáng của Einstein, mặc dù đó là vấn đề then chốt trong các bài báo năm 1905 của ông. Nó không dành cho bất kỳ thuyết nào hết. Nó là cho “sự phát hiện của một định luật”.
Einstein là tác giả của giải Nobel năm 1921 “vì sự cống hiến của ông đối với vật lý lý thuyết và đặc biệt là vì phát hiện ra định luật hiệu ứng quang điện” - Đó là những từ Uỷ ban trao giải dành cho ông. Như vậy Einstein chưa bao giờ giành được giải Nobel về thuyết tương đối hay trọng lực.
13. Các học thuyết của Einstein chi phối văn hoá như thế nào?
Trong gần ba thế kỷ, vũ trụ cơ học của Isaac Newton đã hình thành nền móng tâm lý cho Thời đại khai sáng (thời kỳ trong thế kỷ 18 ở châu Âu, khi người ta cho rằng chính lý trí và khoa học (chứ không phải tôn giáo) sẽ làm cho nhân loại tiến bộ) và trật tự xã hội. Và giờ xuất hiện cách nhìn mới về vũ trụ, trong đó thời gian và không gian phụ thuộc vào hệ quy chiếu. Một cách không trực tiếp, thuyết tương đối của Einstein liên quan đến việc hình thành chủ nghĩa tương đối trong đạo đức, nghệ thuật và chính trị. Người ta ít tin vào tính tuyệt đối, không chỉ của thời gian, không gian, mà của cả sự thật và đạo đức. Những người có đầu óc tưởng tượng không theo khuôn phép như Picasso, Joyce, Freud, Stravinsky, Schoenberg bắt đầu bứt phá ra khỏi những quy ước thông thường. Bơm vào sự hoang mang này là quan điểm về vũ trụ, trong đó không gian, thời gian và đặc tính của các phần tử dường như phụ thuộc vào vị trí quan sát.
14. Einstein có phải là người theo chủ nghĩa tương đối về đạo đức?
Nhiều người coi Einstein là một người theo chủ nghĩa tương đối. Trong số đó có cả những người muốn bày tỏ thái độ bài Do Thái của họ. Nhưng rõ ràng Einstein không phải là người như vậy. Tất cả những học thuyết của ông, kể cả thuyết tương đối, đều là đi tìm cái tuyệt đối và cái đúng đắn. Trên thực tế, ông đã xem xét đến việc đặt tên công trình của mình là “Thuyết bất biến” thay vì “Thuyết tương đối”, bởi nó dựa vào những điều bất biến và đúng đắn ẩn chứa bên trong. Sở dĩ, Einstein phủ định cơ học cổ điển là vì nó đưa ra giả thuyết là thực tại tồn tại dựa vào nhận thức của chúng ta về nó. Điều này đi ngược với quan điểm của ông, đó là thực tại tồn tại độc lập với khả năng nhận thức của con người.
15.Dòng máu Do Thái có vai trò gì trong cuộc sống cũng như thành tựu của Einstein?
Trong cuộc đời Einstein, mối liên hệ của ông với người Do Thái là mối liên hệ thân thiết nhất, mặc dù ông không đi theo những nghi lễ tôn giáo của họ. Nhiều người có thái độ bài Do Thái đã công kích cả ông lẫn thuyết tương đối của ông. Nhưng thái độ đó càng lớn, thì lại càng làm ông xích lại gần với người Do Thái hơn. Chuyến đi đầu tiên của ông tới Mỹ là để quyên tiền cho phong trào phục quốc của người Do Thái. Năm 1933 ông đã trốn Hitler đến Princeton. Gần cuối đời mình, ông còn nhận được lời đề nghị làm tổng thống Israel . Tuy nhiên, ông đã lịch sự từ chối.
16. Einstein có tin vào chúa?
Câu trả là có. Theo Einstein, Chúa linh thiêng và không tồn tại bằng xương bằng thịt. Tuy nhiên ông vẫn tin rằng “bàn tay” của Chúa có ở mọi nơi và được phản ánh trong sự hài hoà giữa những quy luật tự nhiên và vẻ đẹp của vạn vật. Ông thường gọi tên Chúa, ví dụ như ông nói “Chúa trời không chơi trò may rủi”, khi phủ nhận cơ học lượng tử. Niềm tin của Einstein vào điều lớn lao hơn cả chính mình đã tạo ra trong ông sự hoà trộn kỳ lạ giữa sự tự tin và khiêm nhường. Như trong lời tuyên bố nổi tiếng của ông: “Có một linh hồn ẩn chứa trong những quy luật của vũ trụ, một linh hồn cao cả hơn linh hồn của con người, và một khi đối mặt với linh hồn đó, chúng ta, với sức mạnh khiêm tốn, cảm thấy nhỏ bé biết chừng nào. Bằng cách đó, theo đuổi khoa học dẫn tới một cảm giác sùng bái đặc biệt.”
Khi được hỏi ông có tin vào Chúa không, ông luôn khẳng định là có. Có lần ông đã giải thích rằng: “Chúng ta giống như một đứa trẻ bước vào một thư viện lớn, với đầy sách được viết bằng nhiều thứ tiếng. Đứa trẻ biết phải có ai đó viết ra những cuốn sách này. Nhưng nó không biết là bằng cách nào. Nó không hiểu các ngôn ngữ được viết. Nó chỉ lơ mơ hoài nghi về trật tự sắp xếp các cuốn sách đầy bí ẩn nhưng không biết đó là cái gì. Và với tôi, đấy cũng là thái độ của một người thông thái nhất nhân loại đối với Chúa. Chúng ta nhận thấy vũ trụ được sắp xếp theo một cách rất kỳ diệu và tuân theo những quy luật nhất định, nhưng chỉ lờ mờ hiểu về những quy luật đó mà thôi.”
17. Lý thuyết của Einstein vẫn được chấp nhận?
Đúng vậy. Cuộc đời Einstein chứa đựng hầu như toàn bộ khoa học hiện đại, từ vi phân đến vô hạn, từ cái nhỏ nhất có thể tưởng tượng được, như sự phóng các hạt photon, đến cái lớn lao có thể nhận thức được, như sự mở rộng của vũ trụ. Một thế kỷ sau những phát hiện lớn lao của Einstein, chúng ta vẫn đang sống trong vũ trụ của ông. Các hạt quang điện, vô tuyến, năng lượng hạt nhân, tia laser, du hành vũ trụ, thậm chí cả chất bán dẫn, tất cả đều có dấu chân của ông. Ông đã viết một lá thư gửi tới Tổng thống Mỹ Roosevelt, gợi ý về một dự án chế tạo bom hạt nhân và những lá thư viết về phương trình nổi tiếng của ông, mô tả mối liên hệ giữa năng lượng và khối lượng. Hai học thuyết lớn của ông, mở đường đưa khoa học vào thế kỷ 20, thuyết lượng tử và thuyết tương đối, vẫn là hai trụ cột vững chắc cho vật lý lý thuyết một thế kỷ sau đó.
18. Einstein không phủ nhận cơ học lượng tử?
Einstein tin rằng cơ học lượng tử, có những điều chưa rõ ràng và không chắc chắn, không đưa ra được mô tả hoàn chỉnh về vũ trụ. Ông đã dành một nửa cuộc đời làm khoa học của mình để cố tìm ra lỗ hổng trong học thuyết về cơ học lượng tử, và để sắp xếp nó thành một học thuyết hợp nhất. Nhưng ông đã không thành công. Tuy nhiên, cuộc tìm kiếm đơn thương độc mã và ngoan cố của Einstein đã nói lên rất nhiều điều về tính cách cũng như trí tuệ của ông.
19. Quan điểm chính trị của Einstein là gì?
Trước khi Hitler lên nắm quyền và buộc ông phải xem xét lại quan điểm chính trị của mình, Einstein là một người theo chủ nghĩa hoà bình. Ông đã yêu cầu chế tạo bom hạt nhân, nhưng sau đó lại trở thành người đứng đầu trong một phong trào tìm cách kiểm soát nó. Ngay khi tìm kiếm một học thuyết hợp nhất về khoa học, ông đã theo đuổi một thế giới theo chế độ liên bang, có thể áp dụng trật tự đối với những nước cạnh tranh nhau.
20. Cuối cùng Einstein có phải là người ảo tưởng?
Einstein không phải sinh ra để chết trong cay đắng. Nằm trên giường bệnh lúc cuối đời (năm 1955), ông đã soạn bài phát biểu ông định đọc trong ngày quốc khánh của Israel với lời mở đầu: “Hôm nay tôi nói với các bạn không phải với tư cách là một người Mỹ, hay một người Do Thái, mà với tư cách là một con người.”
Nhưng trong đêm cuối cùng của cuộc đời, ông đã đặt bài phát biểu sang một bên, và nhặt lên cuốn sổ đầy những phép tính nguệch ngoạc. Đến phút cuối cùng ông vẫn trăn trở để tìm ra lý thuyết thống nhất chưa có lời kết của mình. Và những dòng chữ cuối cùng ông viết, ngay trước khi bị cơn đau đớn xâm chiếm, là về một hằng số mà ông hi vọng có thể đưa ông, và tất cả chúng ta, xích gần thêm một bước nữa tới linh hồn ẩn chứa bên trong quy luật của vũ trụ.