Yếu tố văn hóa trong các cuộc chiến tranh: Nhìn lại và suy ngẫm
Như vậy, xét trên nhiều khía cạnh, chiến tranh và văn hoá là hai khái niệm, hai hiện tượng gần như trái ngược nhau, bên này thì xây,còn bên kia thì phá,và thoạt nhìn, người ta thấy hai hiện tượng này khó có thể song hành và hỗ trợ cho nhau. Tuy nhiên, thực tế chưa hẳn đã như vậy.
Văn hoá có vai trò cực kỳ to lớn trong việc tiến hành, điều hành và đặc biệt là để duy trì thành quả giành được sau chiến tranh. Trong lịch sử chiến tranh của nhân loại, đã có không ít trường hợp, các quốc gia tiến hành chiến tranh giành được thắng lợi hết sức nhanh chóng và dễ dàng, bởi họ hội tụ được đầy đủ các yếu tố như: binh hùng, tướng mạnh, thiên thời, địa lợi, nhân hoà v.v.., nhưng họ lại gặp vô vàn khó khăn, thậm chí là thất bại khi bảo vệ những thành quả đã giành được. Ngược lại, có những quốc gia phải tốn không ít xương máu và của cải mới giành được chiến thắng, nhưng họ lại rất thành công trong việc bảo vệ những gì đã giành được. Có thể dẫn ra đây không ít ví dụ.
Vào thời cổ đại, đế chế La Mã đã tiến hành hàng trăm cuộc chiến tranh lớn nhỏ, lãnh thổ và uy quyền của họ đã mở rộng lên phía Bắc, phía Tây, rồi sang cả phía Đông. Người La Mã đã xác lập quyền kiểm soát có hiệu quả đối với toàn bộ khu vực Địa Trung Hải trong khoảng 250 năm. Tương tự như vậy, trong nhiều thế kỷ, Trung Hoa đã trở thành một đế chế rộng lớn ở châu Á, vây quanh đất nước được mệnh danh là "quốc gia trung tâm" ấy là các nước chư hầu, phải triều cống, kể cả Triều Tiên, Đông Dương, Thái Lan, My-an-ma và Nê-pan. Sự thống trị của người Trung Quốc mở rộng từ Viễn Đông của Nga ngày nay, xuyên qua Xi-bê-ri đến hồ Bai-can, vào đến Ca-dắc-xtan rồi đến phía Nam tới Ấn Độ Dương và trở về phía Đông qua Lào, Bắc Việt Nam v.v.. Cũng như các đế chế La Mã trước đây, phần lớn các đế chế Trung Hoa đã thực hiện được tham vọng của mình là xác lập và áp đặt quyền thống trị lên cả một vùng rộng lớn từ Âu sang Á và kéo dài trong suốt hàng trăm năm.
Khác với người Trung Quốc và La Mã, vào thế kỷ XIII, dưới sự chỉ huy của Thành Cát Tư Hãn và những người kế thừa, các đạo quân Mông Cổ cũng đã đánh bại nhiều đối thủ ở cả hai lục địa Á-Âu. Lãnh thổ của những chiến binh "Lều Vàng" kéo dài từ bờ biển Trung Quốc tới A-na-tô-li-a ở Tiểu Á và đến tận Trung Âu. Thế nhưng, để bảo vệ những thành quả thu được, hay nói cách khác là để áp đặt sự thống trị của mình lên các vùng đất chiếm được, người Mông Cổ lại không mấy thành công. Trường hợp tương tự cũng đã xảy ra với người Mỹ vào những thập niên 50, 60 và 70 của thế kỷ XX, khi họ thực thi chính sách "Ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản" và tiến hành các cuộc chiến tranh phi nghĩa, trong đó có cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nhằm áp đặt chủ nghĩa thực dân mới. Vậy đâu là nguyên nhân của những kết quả trái ngược trên?
Khi phân tích mối quan hệ giữa chiến tranh và văn hoá, nhiều học giả trên trên thế giới thừa nhận rằng, nếu trong chiến tranh, các yếu tố như: binh hùng, tướng mạnh, thiên thời, địa lợi v.v.. là nhân tố quyết định để giành thắng lợi, thì trong việc duy trì và bảo vệ thành quả chiến tranh, yếu tố văn hoá có vai trò cực kỳ to lớn.
Đúng vậy, nhìn lại các cuộc chiến tranh của người La Mã, Trung Quốc, Mông Cổ và cả các cuộc chiến tranh gần đây của người Anh, người Pháp, người Mỹ.., không ai có thể phủ nhận được rằng, những thắng lợi mà họ giành được trong chiến tranh chủ yếu là nhờ những ưu thế về sức mạnh quân sự. Vào thời hoàng kim, đế chế La Mã đã triển khai ra nước ngoài hàng trăm ngàn binh lính. Vũ khí và năng lực sát thương của quân đội La Mã vượt trội hơn hẳn so với các nước khác, khả năng cơ động cũng như khả năng điều hành chiến tranh của họ cũng không ai sánh kịp. Thế nhưng, cũng ít ai có thể phủ nhận được rằng, sức mạnh đó còn bắt nguồn từ sức hấp dẫn của văn hoá.
Trong quá trình chinh chiến và áp đặt sự thống trị của mình lên các vùng đất chiếm được, người La Mã đã biết cách để làm thăng hoanền văn hoá và văn minh của mình. Tại các vùng đất mà họ đặt chân tới, những chiến binh La Mã đã biết cách hành xử để chứng tỏ "ta là công dân La Mã", còn những người dân bản địa thì dần cảm thấy vinh dự và tự hào khi được ban cho cái danh ấy. Cái địa vị được đề cao của công dân La Mã là biểu hiện của sự hơn hẳn về văn hoá và là sự biện minh cho ý thức về sức mạnh, quyền lực đế quốc. Nó không chỉ hợp pháp hoá cách đô hộ của La Mã, mà còn làm cho những ai ở dưới ách đô hộ ấy muốn được đồng hoá và sáp nhập vào cơ cơ cấu đế quốc. Sự hơn hẳn về văn hoá, hay nói cách khác là khả năng biết làm thẩm thấu nền văn hoá của người La Mã đã làm cho những người bị thôn tính chấp nhận, làm tăng sức mạnh của đế quốc. Đó cũng là nguyên nhân khiến các đế chế La Mã bảo vệ được lâu hơn các thành quả chiến tranh của mình.
Cũng như trường hợp của La Mã, trong quá trình tiến hành chiến tranh và mở rộng bành trướng sang các nước láng giềng, ngoài sức mạnh về chính trị, kinh tế và quân sự, trong một chừng mực nhất định, các đế chế Trung Hoa đã biết khai thác sự hơn hẳn về văn hoá của mình. Sự vượt trội về văn hoá của người Trung Quốc còn được củng cố bằng đạo Khổng - một thứ triết lý có lợi cho đế chế, nhấn mạnh đến tôn ti, trật tự và kỷ luật; nhấn mạnh vai trò của Thiên tử, của Trung Hoa - nơi được coi là trung tâm vũ trụ v.v.. Vì biết khai thác thế mạnh văn hoá và biết kết hợp nó với các yếu tố khác trong chiến tranh, nên trong nhiều thế kỷ, Trung Quốc duy trì được vị trí bá quyền của mình trong khu vực. Vào thời kỳ hoàng kim, Trung Quốc không có đối thủ ngang tài, ngang sức, nghĩa là không có một cường quốc nào có khả năng thách thức vị thế cường quốc của Trung Quốc, hoặc kháng cự lại việc Trung Quốc mở rộng bờ cõi. Trong quá trình mở rộng và xác lập quyền thống trị của mình lên các nước chư hầu, các đế chế Trung Hoa thường nhấn mạnh đến yếu tố đồng hoá về văn hoá, nghĩa là đưa văn hoá Trung Hoa vào văn hoá bản địa và đưa văn hoá bản địa vào văn hoá Trung Hoa. Và cũng như người La Mã trước đây, các đế chế Trung Quốc làm cho người dân các nước chư hầu phần nào cảm thấy tự hào khi biết mình là thần dân của quốc gia "Thiên tử".
Khác hẳn với La Mã và Trung Quốc là những đế chế đã có trình độ phát triển cao cả về chính trị, kinh tế và văn hoá, vào thế kỉ XIII, những bộ lạc du mục Mông Cổ đã nổi lên và tiến hành các cuộc chiến tranh chinh phạt. Tại những vùng đất chiếm được, người Mông Cổ chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự để áp đặt sự thống trị của mình. Do không có sự vượt trội về văn hoá, những kẻ thống trị Mông Cổ có xu hướng dễ bị đồng hoá bởi các dân tộc tiên tiến hơn về văn hoá mà họ đã chinh phục được. Chẳng hạn, vào cuối thế kỷ XIII, sau khi chinh phục được Nam Tống, giai cấp thống trị Mông Cổ không những không thẩm thấu được văn hoá Mông Cổ vào văn hoá Trung Hoa, mà ngược lại còn chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của nền văn minh Trung Quốc. Hốt Tất Liệt - một vị hoàng đế của Đại Hãn tại Nam Tống đã trở thành người truyền bá đạo Khổng nhiệt thành. Những người Mông Cổ ở các nước phía Tây thì dần dần đồng hoá với các dân tộc ở vùng Trung Á, vùng phía Nam nước Nga như U-dơ-bếch, A-déc-bai-dan v.v.., và dùng tiếng nói hệ ngữ Tuyếc, về tôn giáo, đến cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, họ theo đạo Hồi.
Như vậy, do sự phân tán về chính trị và sự thấp kém về văn hoá, những người thống trị Mông Cổ đã bị những người bị thống trị đồng hoá. Đó cũng là nguyên nhân giải thích tại sao, từ thập kỷ 60 của thế kỷ XIII, đế chế Đại Hãn kéo dài từ Đông sang Tây, từ Âu sang Á bắt đầu tan rã. Trên thực tế, quan hệ giữa các quốc gia do người Mông Cổ lập nên ở những vùng đất chiếm được bắt đầu li khai khỏi Nhà nước và chính quyền trung ương. Họ cũng không thừa nhận chính quyền Đại Hãn, thậm chí còn coi Đại Hãn là một kẻ xa lạ vì là tín đồ dị giáo.
Để thấy rõ hơn vai trò của văn hoá trong các cuộc chiến tranh, chúng ta cùng nhìn lại chương trình Dồn dân lập ấpcủa Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam .
Xuất phát từ đặc điểm Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, với hơn 80% dân số là nông dân, sống ở các vùng nông thôn, thôn, ấp, làng, xã vừa là đơn vị hành chính cơ sở, vừa là điểm quần cư mang đậm dấu ấn văn hoá và truyền thống của nông thôn nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Nông thôn còn là nơi cung cấp trực tiếp, thường xuyên, lâu dài số lượng lớn về người và vật chất cho các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm cả trong quá khứ cũng như hiện tại. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, các thôn, ấp, làng, xã ở miền Nam Việt Nam còn là nơi đứng chân, là căn cứ, là bàn đạp tiến công của các lực lượng vũ trang giải phóng… tức là giữ vai trò rất quan trọng cả về thế và lực của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chính bởi lẽ đó, ngay sau khi thay chân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ xác định " nông thôn là căn bản quốc gia", là " một vấn đề khẩn thiết phải giải quyết gấp, đứng hàng đầu các công cuộc khác", "xã ấp còn, quốc gia còn, xã ấp mất, quốc gia mất"(1) và đã đặt công cuộc bình định nông thôn miền Nam Việt Nam lên hàng "Quốc sách". Chương trình bình định nông thôn miền Nam Việt Nam được khởi đầu bằng chính sách lập "Khu dinh điền", "Khu trù mật", "Ấp chiến lược" và "Ấp tân sinh"v.v.. Tuy được che đậy bằng nhiều tên gọi khác nhau, song về bản chất đó chỉ là những "trại tập trung trá hình" do Mỹ-ngụy dựng nên ở các vùng nông thôn miền Nam Việt Nam, nhằm tách nhân dân ra khỏi cách mạng, "bắt cá ra khỏi nước", và cuối cùng là để tiêu diệt cách mạng Việt Nam. Theo tổng kết của Trung ương Cục miền Nam, chỉ tính đến tháng 6-1963, Mỹ-ngụy đã dồn được khoảng 7 triệu dân, chiếm gần một nửa tổng dân số miền Nam, vào 7.500 ấp chiến lược.
Mặc dù tốn không ít tiền của và phải dùng đến nhiều biện pháp và thủ đoạn nham hiểm, nhưng chương trình Dồn dân lập ấpcủa Mỹ-ngụy tại miền Nam Việt Nam đã thất bại. Từ năm 1963, phong trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược của Mỹ-ngụy đã nổ ra và phát triển mạnh mẽ trên toàn miền Nam . Chỉ tính riêng năm 1964, "toàn miền Nam đã phá được 3.659 ấp chiến lược, ta làm chủ trên 2/3 diện tích đất đai và với hơn 10 triệu dân, làm thất bại cơ bản quốc sách ấp chiến lược của địch. Như vậy, đến cuối năm 1964 mọi nỗ lực của địch trong Chiến tranh đặc biệt bị phá sản về căn bản" (2).
Đề cập đến nguyên nhân thất bại của chương trình Dồn dân lập ấp, nhiều học giả, trong đó có cả các học giả Mỹ nhận xét, khi thực hiện kế hoạch dồn dân, các nhà hoạch định chiến lược Mỹ tưởng rằng, cứ đổ thật nhiều tiền của vào các các trại tập trung, và tạo cho nó một cuộc sống mà theo họ là vănminh hơn, no đủ hơn và hiện đại hơnlà có thể giành được "trái tim và khối óc" của người dân. Thế nhưng, họ không hiểu được rằng, chương trình đó đang phạm phải hàng loạt sai lầm, nó đã đụng chạm tới hàng loạt vấn đề được coi là hết sức nhạy cảm trong đời sống hiện thực cũng như đời sống tâm linh của người Việt, đó là các vấn đề: xóm làng,nhà cửa, mồ mả, tổ tiênv.v..
Với người dân Việt Nam, từ lâu, xóm làng không chỉ là điểm quần cư của những người nông dân sống bên nhau từ đời này sang đời khác và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó còn là nơi chôn rau cắt rốn của bao thế hệ và là nơi an định mồ mả của ông bà, tổ tiên họ. Vì thế, trong tâm niệm của người Việt, quê hương bản quán luôn là một phần trọng yếu của cuộc sống. Người Việt Nam cho dù có đi đâu về đâu thì quê hương vẫn là cái đích cuối cùng mà người ta khắc khoải mong về.
Với người dân Nam Bộ, từ lâu điều kiện tự nhiên đã tạo cho họ một cuộc sống thư thả, tâm hồn phóng khoáng và tính tình bộc trực. Họ ghét sự áp đặt và câu thúc về tâm lý… Vì vậy, khi phải rời bỏ mồ mả ông cha vào sống trong các trại tập trung, nơi có hào, có rào, có vọng gác bao quanh, lại bị kiểm soát gắt gao giấy tờ, kiểm soát thời gian và hoạt động nông tác v.v.., người nông dân cảm thấy họ như những con cá đã bị đưa lên cạn, và đã bị tước đi cái phần hồn quý giá nhất của cuộc sống.
Vì không hiểu hết đặc thù văn hoá của nông thôn và nông dân Việt Nam, nên ngay từ đầu, chương trình Dồn dân lập ấpđã vấp phải sự phản kháng mãnh liệt của người dân, đó là nguyên nhân quan trọng dẫn tới thất bại của Mỹ-ngụy trong chiến lược Chiến tranh đặc biệt, và là điểm khởi đầu cho một kết cục bi thảm của người Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Có lẽ, chính vì vậy, khi phân tích các nguyên nhân dẫn tới thất bại của Mỹ tại Việt Nam, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Rô-bớt Mắc Na-ma-ra đã thẳng thắn chỉ ra rằng, trong số nhiều nguyên nhân dẫn tới thất bại, chúng ta đã phạm phải một sai lầm hết sức nghiêm trọng là "Chúng ta đánh giá nhân dân và các nhà lãnh đạo Việt Nam theo kinh nghiệm của chúng ta…, những đánh giá sai lầm của chúng ta về bạn và thù phản ánh sự thiếu hiểu biết cơ bản của chúng ta về lịch sử, văn hoá và chính trị của nhân dân trong vùng." (3).
Người Mỹ đã tìm ra và hiểu đúng một trong những nguyên nhân dẫn tới thất bại của họ tại Việt Nam , và họ đã tổng kết nó thành bài học. Thế nhưng, hình như chính các sai lầm đó vẫn đang lặp lại ở I-rắc, Áp-ga-ni-xtan v.v.., khi mà Mỹ vẫn chỉ nhìn các nước này dưới con mắt "chống khủng bố", và các quân nhân Mỹ vẫn có những hành vi phỉ báng kinh Cô-ran, dùng những nhục hình để tra tấn các tù nhân ở I-rắc v.v.. Có thể, đây lại là một nguyên nhân khiến cuộc chiến của Mỹ tại I-rắc chưa thể kết thúc; Mỹ chưa thể đạt được mục tiêu đề ra là áp đặt quyền "tự do, dân chủ" kiểu Mỹ lên một đất nước có nền văn hoá lâu đời, nơi được coi là cái nôi của nền văn minh Ả-rập. Tổn thất của Mỹ tại I-rắc vì thế cũng đã cao hơn nhiều so với dự tính.
Chiến tranh là điều không ai muốn nhưng nó đã và đang xảy ra ở một số nơi. Một đặc tính cố hữu của chiến tranh là các nước gây chiến luôn cố tìm mọi cách để áp đặt "quyền thống trị "của mình lên các nước bị chiến. Thế nhưng, cũng như một quy luật tự nhiên, các nước bị chiến lại gần như luôn muốn hành động để khi có cơ hội là tước bỏ cái quyền thống trị bị áp đặt ấy và giành lại quyền tự trị vốn có. Với đặc tính ấy, các nước gây chiến, dù có là đế chế hùng mạnh đi chăng nữa thì sớm muộn cũng phải lùi bước và chấp nhận thất bại. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, kẻ có sức mạnh về quân sự, kinh tế thường nắm quyền gây chiến, nhưng việc có áp đặt và duy trì được quyền thống trị lên các nước bị chiến hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào văn hoá và sự hiểu biết về văn hoá.
* ThS, Viện Lịch sử quân sự ViệtNam
(1) Tạp chí Nghiên cứu lịch sử , số 7-1976, tr 17
(2) Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Tập III (Đánh thắng Chiến tranh đặc biệt), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1977, tr 343
(3) Robert S. Mc Namara: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 316-318
Nguồn: tapchicongsan.org.vn