Ý nghĩa nguyên thủy của hình ảnh “Thái Sơn”
Đọc hai câu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn:
“ Mạch thượng tang, mạch thượng tang,
Thiếp ý quân tâm thùy đoản trường?”
(Dâu trên bờ ruộng, dâu trên bờ ruộng,
Lòng chàng ý thiếp, ai sầu ít ai buồn nhiều?).
Bạn đọc thắc mắc: tại sao lại dâu trên bờ ruộng? Trên bờ ruộng ai trồng dâu?
Hoặc hình ảnh non nước trong bài Thề non nước của Tản Đà, non với nước, cái nào tượng trưng cho nam, cái nào tượng trưng cho nữ?
Có nhiều hình ảnh tượng trưng trong văn thơ mà người đọc thấy không lôgic, khó lý giải. Những băn khoăn thắc mắc như thế là có lý. Lúc ban đầu hình ảnh tượng trưng của những từ ngữ ấy là gần gũi, dễ hiểu. Nhưng qua hàng ngàn ngàn năm, tư duy con người ngày càng phát triển, những tín hiệu ngôn ngữ dần dần bị xóa nhoà dấu vết của cái ban đầu mà nó biểu đạt.
M.H.Spenber khi nói về ngôn ngữ cổ xưa khẳng định rằng những tiếng nói đầu tiên của loài người là tiếng gọi người khác giới trong sinh hoạt tính dục, sau đó mới phục vụ công việc làm ăn sinh sống… Dần dần, những tiếng nói đó bỏ hẳn đại bộ phận nội dung tính dục, chỉ nói đến công việc làm ăn. (1)“ Nhiều tiếng gốc sau đó được thành lập, tiếng nào cũng bắt đầu có ý nghĩa tính dục, nhưng về sau nó mất ý nghĩa đó dần đi”, “…Sự có mặt của tính tưởng tưởng đã được minh chứng đầy đủ trong huyền thoại, tôn giáo, nghệ thuật và ngôn ngữ”(2).
Với những gợi ý như vậy chúng tôi thử tìm tư liệu khảo sát một số “điển tích ”trong văn chương, như là “núi Thái Sơn” “chim xanh” “dâutrên bờ ruộng”, v..v… Bài viết này tìm hiểu về hình ảnh “ núi Thái Sơn”.
Ca dao Việt Nam có câu: “ Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.Núi Thái Sơn là núi nào? Có biết bao nhiêu núi non mà sao chỉ lấy núi Thái Sơn để ví von? Đó là ngọn núi cao nhất chăng? Sự ví von ngoài ý nghĩa nói công lao to lớn, có ý nghĩa gì khác không?
Chúng ta biết rằng, Việt Nam không có ngọn núi nào mang tên Thái Sơn cả. Chắc chắn Thái Sơn là ngọn núi bên Trung Hoa. Văn chương cổ của Việt Nam dùng văn liệu Trung Hoa là chuyện thường. Trong văn chương cổ của ta, Thái Sơn có khi để chỉ ý nghĩa to lớn: “ Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao” ( Chinh phụ ngâm ), có khi để chỉ sự cao sang, được ngưỡng vọng: “ Thái Sơn Bắc đẩu”, để suy tôn người tài giỏi: “ Thái Sơn lương mộc”v..v…
Nhưng Thái Sơn không phải là ngọn núi cao nhất của Trung Hoa. Từ thời cổ Trung Hoa đã nói đến Tứ Nhạc, rồi Ngũ Nhạc, tức là những dãy núi cao nhất. Thời cổ, Thái Sơn được gọi là Đông Nhạc, ngọn cao nhất của dãy này là 1.524 mét. Đang còn Bắc Nhạc, Tây Nhạc, Nam Nhạc, Trung Nhạc. Trong đó Bắc Nhạc, Tây Nhạc đều cao hơn Đông Nhạc rất nhiều (Bắc Nhạc: 2.017mét, Tây Nhạc: 2.038mét). Rõ ràng Thái Sơn không phải là ngọn núi cao nhất.
Có lẽ ta không thể giải thích qua phương diện tự nhiên của Thái Sơn, mà phải nhìn vào phương diện xã hội, nhân văn. Về phương diện này có thể nêu mấy điểm đối với Thái Sơn:
1. Thái Sơn là ngọn núi được sùng bái.
Đây chính là nơi các đế vương Trung Hoa làm lễ phong thiền. Lễ phong thiền có từ bao giờ thì ta khó đoán định một cách chính xác, nhưng trong sách của Sử ký Tư Mã Thiên đã ghi: “ Từ cổ đế vương nhận mệnh trời (lên ngôi) không ai không làm lễ phong thiền”. Phong thiền là lễ vua chúa tế trời đất. Đắp đất thành đài trên núi Thái Sơn để tế trời gọi là “ phong”, san nền trên núi Lương Phụ kề sát phía nam núi Thái Sơn để tế đất gọi là “ thiền”. Các đế vương đều coi lễ phong thiền là đại điển (lễ lớn).
Thái Sơn nằm trên tỉnh Sơn Đông ngày nay, đó là vùng đất các nước Tề, Lỗ thời nhà Chu(thế kỷ 11 - thế kỷ 3 trước CN). Tề, Lỗ thời đó là những nước còn giữ lại được nhiều sinh hoạt văn hóa cổ. Trong sách Luận Ngữ, Khổng Tử nói: “ Tề một phen biến thành Lỗ, Lỗ một phen biến đổi thì đạt đến đạo xưa”.Đạo xưa chính là tập tục, lễ pháp thời cổ. Cho nên tục phong thiền tồn tại trên đất này là điều dễ hiểu.
2. Thái Sơn được sùng bái từ thời xa xưa, từ thời tiền sử.
Để hiểu từ thời tiền sử không thể chỉ căn cứ theo ghi chép lịch sử, mà còn căn cứ vào nhiều nguồn tư liệu khác: khảo cổ, thần thoại, truyền thuyết, ngôn ngữ, phong tục v..v…, tức là vào tất cả những gì còn để dấu vết đến ngày nay.
Thái Sơn còn được gọi là Đại Sơn, Đại Tông, Đại Nhạc, Thái Đại.
Xung quanh Thái Sơn có nhiều ghi chép, nhiều truyền thuyết cho ta những thông tin có thể tìm hiểu những hàm nghĩa văn hóa chứa trong nó. Sách Thượng Thư, thiên Thuấn điển nói vua Thuấn đã từng tuần thú đến Đại Tông, thiên Ngũ Đế Kỷ trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên đời Hán nói Hoàng Đế cũng đã từng đến Đại Tông. Hoàng Đế, Thuấn là những nhân vật trong truyền thuyết, thuộc thời kỳ tiền sử. Như vậy ta có thể đoán định sự sùng bái Thái Sơn đã có ngay từ buổi sơ khai của loài người.
Thiên Đàn Cung sách Lễ Ký ghi lại rằng: Khổng Tử dậy sớm, chống gậy đi dạo trước cửa, hát rằng: “ Thái Sơn đổ mất sao? Cây lớn mục nát mất sao? Triết nhân khô héo mất sao?”. Sách kể tiếp, Khổng Tử biết mình sắp chết nên mới hát lên như vậy, ví mình như Thái Sơn, như cây lớn. Quả nhiên Khổng Tử ốm bảy ngày rồi mất. Thái Sơn trong tâm linh người Trung Hoa thời ấy, nhất là những con người thông thái, nhạy cảm như Khổng Tử, chứa chất nhiều hàm ý sâu xa liên quan tới nền nhân văn, tới sự sống của con người.
3. Sùng bái Thái Sơn là sùng bái sự phồn thực, sùng bái giống cái.
Đạo giáo có truyền thuyết rằng người chết hồn sẽ quy tụ về Thái Sơn. Không chỉ Đạo giáo, mà sự sùng tín ấy khá phổ biến. Sách Hậu Hán thư, mục Truyện Ô Hoàn có ghi: “…như người Trung Quốc, khi chết hồn quy về Đại Sơn”. Sách Từ Nguyên, khi giải thích về thần Thái Sơn nói: “ Thời xưa các nơi đều có miếu Đông Nhạc để cúng thờ thần Thái Sơn.” Thần Thái Sơn được Đạo giáo coi là thần chủ của đất. Thần Đất là mẹ của vạn vật, “ hầu hết mọi nơi trên trái đất đều gọi trái đất là Bà mẹ”(Will Durant, Nguồn gốc văn minh). Như vậy, sùng bái Thái Sơn là sùng bái thần Đất, thần Mẹ.
Lời giải thích của sách Công Dương truyện và thiên Tế tự chí của sách Hậu Hán thư về tên gọi núi này cho ta hiểu sâu hơn: “ Đại” (tức chữ “đại” trong tên gọi “Đại Tông”) là “bào thai”, “tông” là đứng đầu. Là sự giao hòa âm dương, mây chạm đá bay ra, gối kề bên nhau mà kết hợp, phút chốc mưa khắp trời (3), chỉ Thái Sơn mới thế chăng, Thái Sơn mới đứng đầu Ngũ Nhạc chăng?”.
Giải thích của sách Công Dương truyện và sách Hậu Hán thư cho ta biết hai điều: 1,Thái Sơn đứng đầu Ngũ Nhạc không phải vì cao lớn, mà do nó có khả năng giao hòa âm dương, làm ra mây mưa khắp trời, mở đầu cho vạn vật sinh sôi nảy nở. 2, Hình thái biến hóa của Thái Sơn là những động thái của sự kết hợp nam nữ: “ gối kề bên nhau”, “ giao hợp âm dương”… “ Chủ điểm của huyền thoại cổ nhất là trời đất giao hòa với nhau mà sinh vạn vật” (Will Durant, Nguồn gốc văn minh, mục Đối tượng của tôn giáo).
Chúng ta còn có thể lấy tư liệu trong Kinh Dịch để làm sáng tỏ thêm điềm này. Kinh Dịch có quẻ Thái gồm hai quẻ đơn “ Càn” ở dưới và “ Khôn” ở trên tạo thành . “ Càn” thuộc nam, “ Khôn” thuộc nữ. Tự quái giải thích “ Thái là thông suốt vậy”. Sách Quảng Nhã cũng giải thích “ thái” là “ thông”. Hình tượng của quẻ rõ ràng là một nam, một nữ. Một nam một nữ kết hợp với nhau thì gọi là “ thái”. “ Thái”là thông, là đạo trời thông suốt, sự sống cứ tiếp tục vận hành, sinh sôi nảy nở. Quẻ Cấn, thuộc núi, gồm hai hào âm, một hào dương (ở quẻ đơn). Âm chiếm ưu thế.
Còn nhiều tư liệu khác cho phép ta nghĩ tới “ núi” là liên quan tới nữ tính, tượng trưng cho nữ tính. Ví dụ về câu chuyện tiên. Ta chỉ nghe nói tiên ở trên núi, phương Tây cũng như phương Đông, hầu như không có tiên ở biển, ở sông. Tiên ban đầu chỉ là tiên nữ về sau mới sinh ra tiên ông. “ Hầu hết các vị thần đầu tiên đều thuộc phái đẹp, sau này các nam thần được đưa lên ngang hàng với các nữ thần, có lẽ là do chế độ gia đình phụ hệ đã thay thế”(Will Durant, Nguồn gốc văn minh, mục Nguồn gốc tôn giáo). Ở phương Đông, thư tịch đầu tiên nói tới tiên là sách Trang Tử, ở thiên Thiên địa nói tới cõi tiên. Chữ “tiên” viết bằng chữ Hán là仙(nhân + sơn), có nghĩa là “người trên núi”. Ở thiên Tiên dao du miêu tả người tiên: “ Ở trên núi Cô Dịch có thần nhân ở, da thịt trắng như băng tuyết, yểu điệu như cô gái đồng trinh…”. Cách miêu tả như vậy cho phép ta nghĩ tới những thần nhân ấy là nữ.
Trong tiếng Hán chúng ta cũng có thể lật lên để tìm những dấu vết tương tự. Tiếng Hán dùng “ Thái Sơn” để chỉ bố vợ (Bố vợ còn được gọi là “nhạc phụ”, “nhạc” ở đây cũng chỉ Thái Sơn). Thái Sơn ở Trung Hoa chỉ “ bố vợ” nghĩa là cũng nghiêng về âm, sang ca dao Việt Nam thì chỉ “ bố”. Những biến dạng như thế là dễ hiểu và là hiện tượng phổ biến.
Ngay câu chuyện truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ của chúng ta cũng nói Âu Cơ giống tiên, quen ở núi.
Tất cả những ghi chép của thư tịch, những truyền thuyết, những hiện tượng ngôn ngữ nêu trên rất đa dạng, song có một điểm chung là đều liên quan đến nữ tính, liên quan đến sự tương giao nam nữ, đến sự giao hòa âm dương, tức là liên quan đến sự sinh sản và sinh tồn của con người. Với con người thủa thơ ấu yếu ớt ấy, trước tự nhiên vĩ đại đầy quyền uy thì điều quan trọng bậc nhất của họ là sự sinh tồn của giống loài. Họ sùng bái sinh thực khí, bộ phận tạo ra sự sinh tồn nhưng cũng đầy huyền bí, đầy thiêng liêng đối với họ.
Qua những cứ liệu và sự phân tích ở trên, có thể đi đến kết luận rằng, Thái Sơn buổi đầu xa xưa ấy tượng trưng cho sự phồn thực của giống loài. Về sau, khi xã hội ngày càng phát triển, con người đã “ văn minh hóa” nó, “ lý luận hóa” nó, gán vào đó những ý nghĩa luân lý, ý nghĩa chính trị sao cho phù hợp với cách nhìn của thế hệ mình.
Mặc dầu vậy, qua những truyền thuyết, thần thoại, ngôn ngữ và những cứ liệu ở nhiều lĩnh vực khác nhau, vẫn có thể tìm ra ý nghĩ tượng trưng ban đầu của Thái Sơn. Trong ca dao, Thái Sơn tượng trưng cho công cha, tức là vẫn mang bóng dáng của ý nghĩa phồn thực ban đầu. Chỉ khi đi vào văn học bác học, tức là đi vào lĩnh vực nghệ thuật của cái “nhã” thì Thái Sơn chỉ còn lại ý nghĩa tượng trưng cho cái “lớn”, “vĩ đại”. Điều này góp phần khẳng định vị trí của văn hóa dân gian trong nền văn hoá dân tộc.
Còn rất nhiều hình ảnh tượng trưng mang giá trị sâu xa liên quan đến tâm linh nhân loại, liên quan đến sự sinh tồn của nhân loại cần được tiếp tục nghiên cứu. Ở đây trong khuôn khổ bài báo, chúng tôi chỉ nêu lên vấn đề Thái Sơn như một gợi ý để những người quan tâm cùng tiếp tục suy ngẫm vấn đề. Rất mong được trao đổi.
Chú thích:
(1)Freud và phân tâm học,Phạm Minh Lăng, NXB Văn hóa Thông tin, tr 126.
(2)Nhập môn phân tâm học,Sigmund Freud, Nguyễn Xuân Hiến, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 187.
(3)Câu “ phút chốc mưa khắp trời đất” nguyên văn là “bất sùng triêu nhi biến vũ thiên hạ”.Các nhà chú giải xưa đều cho “ Sùng triêu” là khoảng thời gian từ sáng sớm đến lúc ăn cơm sáng. Các từ điển cũng giải thích như thế. Nhưng Khải Lương, tác giả cuốn Lịch sử văn minh Trung Hoa đã khảo chứng, giải thích “ triêu” đây là ẩn ngữ, chỉ chuyện trai gái, “ đối thực” là đồng tính luyến ái, “ triêu thực” là dị tính luyến ái. Quách Mạt Nhược chú Sở từ cũng giải thích “ triêu cơ” là ẩn ngữ chỉ chuyện trai gái ( Sở từ kim dịch , trang 67). Khải Lương giải thích câu trích của Hán thư là: “ không cần cúng tế sinh thực khí mà trời đất giao cảm với nhau như thế, cách thức là chạm vào đá, kê sát vào nhau mà kết hợp”.