“Xoang” trên cao nguyên
Xoang Gia-rai gắn với các lễ hội dân gian như “ mừng lúa mới”, “ăn trâu”, bỏ mả”. Người Ba- na cũng có xoang trong lễ mừng lúa mới (samok), lễ mừng sức khoẻ (tơnol) tức là lễ thành đinh, lễ ăn trâu (grong kpô).Đây là dấu vết của hình thức hiến tế cổ xưa. Sau khi thắng trận trở về, người Ba-na dùng tù binh làm vật tế để tưởng nhớ những người đã ngã xuống trong chiến đấu.
Người Gia-rai có xoang tung tai, xoang vỗ tay và xoang vuốt tranh trong lễ bỏ mả. Xoang mang đặc điểm giới tính: nữ thì biểu diễn xoang vỗ tay, xoang vuốt tranh; nam thì múa xoang khiêl, xoang tung khắc.
Tuy cùng ngữ hệ Malayo – Polynésien với dân tộc Ê-đê, nhưng người Gia-rai không có những điểm tương đồng về múa. Ngược lại với dân tộc Ba-na, tuy khác nhau về ngữ hệ (tiếng Ba-na thuộc ngữ hệ Môn-khơ-me) họ lại có những điểm tương đồng về xoang.
Xoang tung tailà điệu múa nắm tay nhau đung đưa (trước nhà rộng, quanh nhà mồ, quanh cây nêu). Đây là một sáng tạo của người Gia-rai ở vùng Ayun Pa (huyện Cheo Reo cũ). Người múa di chuyển theo đội hình vòng tròn ngược chiều quay của kim đồng hồ. Bước chân cơ bản là đi ngang, bước tới thì dài, bước lùi thì ngắn, người nọ nắm tay người kia, đưa tay từ trên xuống dưới, khi bước lùi thì nhún đưa mông. Xoang tung taitheo nhịp khoan thai của dàn chiêng Arap. Điệu xoang này thu hút những thanh niên. Thông thường trong lễ hội, các thiếu nữ bắt đầu cuộc múa. Các chàng trai xen vào sau - ở chỗ họ có thể múa với cô gái mà mình thích. Nắm tay nhau, các đôi nam nữ có thể múa thâu đêm.
Xoang vỗ taylà điệu múa mà động tác chủ đạo là vỗ tay. Người múa bước chân phải lên phía trước, chân trái kéo lên cạnh chân phải, đồng thời nhún đưa mông bên phải. Sau đó bước chân trái lên phía trước, chân phải kéo lên cạnh chân trái, đồng thời đưa mông bên trái.
Xoang vỗ taytheo đội hình hàng ngang, di động theo đường tròn nhưng ngược với chiều quay của kim đồng hồ. Người múa thường là nữ.
Vỗ tay là động tác lao động đã được cách điệu. Khi lúa chín trên rẫy, các cô gái Gia-rai ngồi trên chòi canh, hú gọi, vỗ tay đuổi chim ăn lúa. Động tác này gắn với đội hình hàng ngang, là sự mô phỏng hình đàn sếu mỏ dài bay theo đàn, hạ cánh xuống đất kiếm ăn. Xoang vỗ tay thường được múa trong lễ bỏ mả (Pơ thi). Trong lễ hội này còn có xoang vuốt tranh, như tên gọi, động tác vuốt tranh(đã được cách điệu) nói lên xuất xứ của nó. Nó gợi cho linh hồn người chết nhớ lại những lúc lên rẫy (cùng bạn bè, người thân) phải gạt sang hai bên đường những cỏ tranh che khuất lối đi. Các cô gái vuốt dọc những tua áo hdruinhiều màu chạy dài từ vai xuống gót. Dùng chân trái làm trụ, người múa đưa nhẹ chân phải ra đằng trước rồi gập chéo trước chân trụ, thân trên hơi đổ về phía trước. Sau đó bước chân phải lên một bước, đưa hai cánh tay lên cùng lúc với chân trái rút về cạnh chân phải, nhún đưa mông kết hợp với chắp tay trước ngực. Đưa mông, sau đó đưa hai cánh tay đằng trước rồi thả tay dọc theo người. Xoang vuốt tranhtheo nhịp chiêng chậm rãi.
Điệu xoang của các cô gái Ba-na trong lễ ăn mừng lúa mới(samok) cũng duyên dáng. Theo tin ngưỡng dân gian Ba-na, nữ thần Yă Ba trông coi đất đai và bảo hộ mùa màng. Lễ hội này được tổ chức sau vụ gặt lúa để tạ ơn thần. Điệu múa thể hiện sự quan tâm của Yă Ba đối với các thành viên cộng đồng dân tộc. Được tuyển chọn vào dàn múa xoang, các cô gái lựa nếp ngon làm cốm và đổ vào gùi, mang lên nhà rông, đặt cạnh những ché rượu xếp quanh cây nêu. Họ mặc lễ phục với bộ áo liền váy bó sát người và chiếc khăn màu sặc sỡ, đeo vòng bạc trên tay. Sau hồi trống mở đầu điệu nhạc chiêng, các cô gái múa xung quanh những ché rượu, di động ngược chiều quay của kim đồng hồ. Đi hết một vòng khép kín, chị em lần lượt phát cốm cho dân làng ngồi xung quanh rồi tiếp tục múa. Khi nào phát hết cốm, điệu múa mới kết thúc. Được nhận cốm ở lễ hội từ nay các cô gái múa, ai cũng hy vọng mình sẽ gặp may, làm ăn thuận lợi trong múa lúa tới.
Cũng như người Gia-rai, người Ba-na có tục bỏ mả (yơng brú). Sau khi được đáp ứng mọi nhu cầu, linh hồn người chết về thế giới riêng của họ. làm xong lễ bỏ mả, thân nhân người chết mới được công nhận là người sống đã làm trọn nghĩa vụ đối với người đã khuất và được lập lại gia đình. Lễ bỏ mả gồm hai phần: lễ tiễn linh hồn người chết ở khu nhà mồ và bữa ăn thân mật của cộng đồng tại nhà rông.
Lễ tiễn gồm các nghi thức: phá ngôi nhà mồ dựng tạm, xây nhà mồ mới; làm cỗ cho người chết ăn uống lần cuối, biểu diễn nhạc múa.
Ở nhà mồ mới, vị chủ tế cúng cơm thịt rồi rót rượu lên phần mộ để người chết ăn uống, dặn dò hồn trước khi về thế giới bên kia. Sau bài khấn cúng, thân nhân ngồi quanh mộ khóc thương người chết. Tiếp đến là phần múa, nhiều đội múa biểu diễn trong lễ bỏ mả: đội chủ nhà và những đội khách đến dự.
Người Ba-na có tục mời ăn lễ bỏ mả, nhà có đám mời khách các nơi đến dự. Dù không được mời, nghe nhạc chiêng của lễ bỏ mả, người ta vẫn cứ đến. Khách mời không phải góp tiền mà chỉ cần tham gia múa và đánh cồng chiêng. Bởi vậy, bao giờ khách cũng mang theo đội cồng chiêng và đội múa làng mình. Đi dự lễ, người biểu diễn thường mặc lễ phục (quần áo đẹp, thắt nịt bạc, đeo hộp bạc đựng thuốc lá, cài lông chim quý lên khăn bịt đầu). Đội chủ nhà đi trước trong đội hình múa, các đội bạn nối đuôi theo sau. Đội hình múa phổ biến là dàn hàng ngang thành những nhóm lẻ như 3, 5, 7 người… Những người cùng hàng nắm tay nhau quay lưng về hướng đi, vì người Ba-na nghĩ rằng người sống đi tới, người chết đi lùi. Dàn hàng ngang, chân trái lùi sang trái, chân phải rút cạnh chân trái, đồng thời đưa hai tay ra đằng trước đi ngang tầm thắt lưng. Sau đó nhún đưa mông nhẹ sang trái, đồng thời thả xuôi hai tay dọc theo người. Bước nhún động tác chủ đạo - được lặp lại nhiều lần trong điệu múa. Đội hình nhạc công nối tiếp đội hình múa. Bốn người đàn ông khiêng trống lớn bằng hai chiếc đòn dài bắt chéo qua nhau ở chính giữa đòn. Người đánh trống bằng dùi đi bên cạnh trống. Khi đội hình múa dừng lại, những người khiêng hoặc người đánh trống ngả người ra đằng sau và uốn lưng. (Đòn khiêng trống trở thành một chỗ vịn để làm động tác ngả uốn lưng). Dàn chiêng thành hàng dọc, nối gót 4 người khiêng trống lớn. Ngoài 12 người đánh chũm choẹ v.v… Múa của các đội đông người thường phong phú về đội hình: dẫn đầu là một thành niên múa trống xơ gơr(trống con đeo trước bụng, gần giống như trống bồng của người Việt). Người múa phô diễn những kỹ xảo của loại múa đơn nam như: quỳ gối ngả người ra đằng sau cho đầu chấm đất; đầu lướt trên mặt đất từ trái sang phải (rồi ngược lại) mà tay vẫn vỗ trống.
Tiếp theo múa xơgơr là các cụ già cầm gậy biểu dương lực lượng làng mình. Theo sau các vị bô lão, là các cô gái múa xoang rồi đến đội cồng chiêng.
Người Ba-na nghĩ rằng, hễ vòng múa càng dài thì con đường tiễn linh hồn người chết cũng dài thêm ra. Điều đó chứng tỏ thịnh tình của người sống đối với người quá cố. Bởi vậy, người ta thay nhau múa suốt buổi lễ để vòng múa không bị gián đoạn. Biểu diễn xoang phải là gái tân nên đến kỳ lễ hội, đội múa thường thay các cô đi lấy chồng.
Ở hai dân tộc Gia-rai và Ba-na, xoang mang đặc điểm giới tính:
- Múa nữ thì nhẹ nhàng, uyển chuyển như xoang vỗ tay, xoang vuốt tranh.
- Múa nam khoẻ mạnh như xoang khiêl(múa khiên), xoang tung khắc (từ tượng thanh: “ tung” là tiếng dùi đánh vào mặt trống cái, “ khắc” là tiếng dùi gõ vào tang trống hoặc tiếng hai dùi gõ vào nhau, có người dịch âm là kdung khăk). Múa khiênđược 2 dân tộc Gia-rai và Ba-na sử dụng trong lễ hội ăn trâu.
Trong trường ca “ Xinh Chơ Nhã” điệu múa khiên của anh hùng thần thoại Xing Chơ Nhã làm cho Jơ Rơ Bú khiếp vía.
Làm bằng gỗ, mặt khiên the hình tròn. Chính giữa quấn một vòng mây. Mặt trái của khiên được lắp một thanh ngang làm tay cầm. Múa khiên là một lễ tiết trong đâm trâu, một hình thức hiến tế mà con trâu là vật hy sinh.
Người múa là những chàng trai buộc khăn đỏ, thả hai đuôi khăn xuống trước trán, mặc áo blo, đóng khố kơ tếch, tay trái cầm khiên, tay phải cầm kiếm. Động tác múa được cách điệu và biến hoá từ những thao tác chiến đấu như xoay khiên, gạt kiếm của đối phương, nhảy tới, nhảy lui(với yêu cầu nhảy cao), múa ngồi, lăn khiên. Để thử tài múa của các chàng trai, các cô gái đứng hàng ngang té nước vào người múa. Ai múa giỏi, người vẫn khô, ai vụng múa quần áo ướt sũng và bị chê cười.
Múa khiên diễn ra xung quanh con trâu bị cột ở cây nêu, nên còn gọi là múa “xây cột”. Điệu múa này có mấy hình thức: múa nam đông người, múa đôi nam (hai bên giao đấu thi tài). Ngoài lễ đâm trâu, trong lễ cúng bến nướccũng có múa khiên.
Dàn chiêng Arap đệm cho múa. Người múa có thể lấy đà ở phách nhẹ, nhưng các động tác nhảy phải rơi vào phách mạnh.
Ở dân tộc Ba-na múa khiên cũng được sử dụng trong lễ đâm trâu của ngày hội Grong kpô.
Ngày xưa, sau những cuộc xung đột võ trang với các tộc người hoặc với các làng khác, những người Ba-na chiến thắng trở về với chiến lợi phẩm và tù binh. Họ dùng tù binh làm vật hy sinh để tưởng nhớ những chiến hữu đã ngã xuống trên trận mạc. Về sau con trâu thay cho tù binh làm vật hiến tế. Tộc trưởng là một già làng, đĩnh đạc trong lễ phục: đầu chít khăn có giắt lông chim xơ lông, mình trần, đóng khố hoa với những tua mềm, tay trái cầm khiên, tay phải cầm giáo, dẫn đầu 4 hoặc 6 vũ sĩ. Những người này cũng mặc đẹp như già làng, tay trái cầm khiên, tay phải cầm giáo. Sau bài khấn của chủ tế, nổi lên hồi trống mở đầu điệu nhạc chiêng sôi nổi. Tộc trưởng bước tới, ném gạo vào con vật bị hiến tế. Các dũng sĩ toả ra, vây quanh cây nêu và cùng vãi gạo vào con trâu. Sau thủ tục này, điệu múa đâm trâu bắt đầu với những động tác khoẻ - đẹp, khoan thai. Điệu múa biểu thị sức mạnh và niềm tự hào của cộng đồng dân tộc.Cùng với nhạc cồng – chiêng, những tiếng reo hò, giậm chân của vòng người xung quanh, làm tăng hùng khí cho điệu múa.
Ở 2 dân tộc Gia-rai, Ba-na, cũng như ở người Ê-đê còn có múa tung khắc(Kdung khăck) (một loại trống đặt nằm ngang trên giá đỡ, mặt trống quay ra phía khán giả). Khi biểu diễn trên nhà rông, người múa còn gõ hai dùi trống xuống sàn nhà, vào tường, liếp xung quanh mình, tạo ra những mô hình tiết tấu phức hợp với nhạc đệm. Cũng có khi múa ngoài trời trên một khoảng đất rộng, một người biểu diễn cùng vai hề phụ hoạ. Chẳng những tiếng trống gây không khí sôi động mà chính sự phối hợp ăn ý giữa người đánh trống và vai hề đem lại cho khán giả những trận cười thoải mái. Gặp người múa trống có khả năng gây cười, vai hề tạo ra những miếng trò hấp dẫn, chẳng hạn như mô phỏng sinh hoạt của loài khỉ (bẻ ngô nhai hạt), loài gà (gà mẹ bảo vệ gà con trước diều hâu), kể cả chuyện hề trêu người đánh trống làm cho anh ta phải bỏ chạy (khán giả được một mẻ cười). Bản thân kỹ thuật đánh trống (với những động tác quay nhảy phức tạp) cũng đã có sức hấp dẫn đối với người xem. Dân tộc Ba-na có nghệ thuật múa Brim- một loại múa mặt nạ bằng củ chuối - rất được công chúng ưa thích vì hình thức hài kịch sơ khai này. Người đeo mặt nạ là nhân vật Kija thường xuất hiện trong lễ hội với mục đích lâm lô (đi đòi cái ăn). Kija là hiện thân của lực lượng quấy nhiễu dân làng. Thấy hắn dẫn quân lâm lôđến nhà, ai có gì cho nấy. Của xin được, chúng mang đến lễ hội. Dân làng thấy cũng vui.
Gắn với lễ hội và tín ngưỡng dân gian, các loại xoang của 2 dân tộc Gia-rai và Ba-na làm phong phú đời sống tinh thần (kể cả đời sống tâm linh) của họ. Như đã nói ở trên, tuy khác nhau về ngữ hệ, hai dân tộc này cũng có xoang và những điệu xoang gắn với các lễ hội mừng lúa mới, bỏ mả, đâm trâuv.v… Về phương diện hình học nghệ thuật (morphologie de I’art) nghệ thuật múa dân gian Gia-rai và Ba-na không ít những nét tương đồng và chính sự khác biệt về phong cách biểu hiện làm cho mỗi dân tộc vẫn giữ và phát huy được bản sắc nghệ thuật của mình.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 74, 1/2005







