Võ tướng văn tài Nguyễn Hữu Chỉnh (1741 - 1787)
Sinh ra trong một gia đình giàu có, thuở thiếu thời Nguyễn Hữu Chỉnh đã nổi tiếng thông minh vượt trội so với bạn bè cùng trang lứa. Lên 6 tuổi được cha mẹ cho đi học, 9 tuổi Nguyễn Hữu Chỉnh đến mừng thầy học nhân Tết Nguyên đán, thầy cho một tràng pháo và bảo làm một bài thơ Nôm vịnh pháo, cậu ứng khẩu đọc:
Xác không vốn những cậy tay người
Khôn khéo làm sao nữa cũng rơi
Kêu lắm lại càng tan tác lắm
Chung quy chỉ một tiếng mà thôi
Thầy học nói với mọi người: Tương lai sự nghiệp của thằng bé này tất to lắm. Nhưng làm loạn thiên hạ cũng là nó đấy.
Thầy lại bảo làm đôi câu đối dán cổng, cậu viết:
Mở khép càn khôn, có ra tay mới biết
Ra vào tướng tướng, thử liếc mắt mà coi.
Ai nấy đều phục là khẩu khí một vị anh hùng.
Về văn nghiệp, Nguyễn Hữu Chỉnh là một trong số các nhà Nho tài tử có tác phẩm tiêu biểu được in trong cuốn Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam của PGS.TS. Trần Ngọc Vương (Nxb Giáo dục, 1995). Về đường binh nghiệp, ông là võ tướng “ bạch thủ thành gia” - tay trắng làm nên sự nghiệp lớn. Khi đỉnh cao hiển đạt ông là người “ quyền bất thất kinh” - quyền biến mà không làm mất đạo lý kinh nghĩa.
Theo sơ đồ gia phả dòng họ Nguyễn Hữu do ông Nguyễn Hữu Dinh (58 tuổi ở xóm 7 xã Phúc Thọ) cung cấp, vợ chồng cụ Nguyễn Mẫn và bà chánh thất Nguyễn Thị Hùng Nhị sinh hạ 2 trai 5 gái, trai trưởng là Bằng Lĩnh Hầu Nguyễn Hữu Chỉnh (1741-1787), trai thứ là Như Đan Bá Nguyễn Hữu Nghiêm.
Thi đậu Hương cống (Cử nhân) năm 16 tuổi, nhưng giữa thời vua Lê chúa Trịnh năm phe bảy phái tranh giành quyền lực, đẩy muôn dân vào cảnh huynh đệ tương tàn, Nguyễn Hữu Chỉnh không cố níu giữ ngọn bút lông, không muốn đời mình cùn mòn trong giáo lý, ông nhập thế bằng lục thao tam lược.Nung chí lập nghiệp bằng nghề võ, Nguyễn Hữu Chỉnh dày công luyện tập trong suốt 2 năm, thông thạo 18 ban võ nghệ, nổi tiếng về cưỡi ngựa múa đao. Từ một nhà Nho trói gà không chặt, ông trở thành một lực sĩ “xách nổi hàng mấy trăm cân”. Gặp khoa bác cử (khoa thi võ để tuyển chọn các chỉ huy quân sự), ông ra Thăng Long thi nhưng không đỗ, đành tạm trở về cố hương làm bạn với non nước cỏ cây. Giỏi quốc âm, có năng khiếu văn chương, thời gian này ông làm mấy thiên Đường luật để ngụ cái bất đắc như ý của mình.
Phận đành yên phận, chửa yên thân
Vàng, bạc còn chen đám tục trần
Trong hãy trả ơn bề cốt nhục
Ngoài càng luống tưởng đạo quân thân
(Vô đề)
Khởi nghiệp võ theo Hoàng Ngũ Phúc đánh Chúa Nguyễn ở Thuận Hoá (Huế), sau khi Hoàng Ngũ Phúc mất, ông dựa vào Hoàng Đình Bảo (Quận Huy). Quận Huy bị giết trong loạn kiêu binh, ông trở về Nghệ An rồi vào Nam theo Nguyễn Huệ. Cuối cùng, ông dựa hẳn vào vua Lê đánh dẹp Trịnh Bồng, được vua phong Đại Tư Đồ giữ việc nước trọng yếu, tước Bằng Quận công, Bằng Trung công. Năm 1787, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm mang quân ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh bằng cực hình.
Sau khi ông mất, triều Nguyễn suốt 150 năm cầm quyền coi ông là kẻ thù, do vậy hầu hết cứ liệu liên quan đến Nguyễn Hữu Chỉnh đều bị tiêu huỷ nên các thông tin về thân thế, sự nghiệp của ông có nhiều chỗ không thống nhất. Sách Câu đối xứ Nghệtập I (NXB Nghệ An năm 2005) ghi ông đậu Tam trường thi Hội về võ năm 18 tuổi, nhưng sách Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnhcủa Phan Trần Chúc (NXB Mai Lĩnh in trước 1945, Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và văn hoá Việt Nam tái bản 2001) lại ghi “gặp khoa bác cử (khoa thi võ để tuyển chọn các chỉ huy quân sự), Nguyễn Hữu Chỉnh ra Thăng Long thi nhưng không đỗ”. Chỉ mỗi chi tiết ông đỗ hay không đỗ trong kỳ thi Hội về võ, sau này mỗi sách đã cho kết quả trái ngược rồi. Rồi có người viết do nhầm lẫn đã vô tình “hợp danh” Nguyễn Hữu Chỉnh với Nguyễn Hữu Chính. Tiến sỹ Nguyễn Hữu Chính (1829-1887) gọi Nguyễn Hữu Nghiêm là ông nội, gọi Nguyễn Hữu Chỉnh là ông bác. Bằng Lĩnh Hầu Nguyễn Hữu Chỉnh sống gần trọn nửa sau thế kỷ 18, còn tiến sỹ Nguyễn Hữu Chính sống giữa thế kỷ 19, tham gia Cần Vương và mất trong khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Về gia tộc, Nguyễn Hữu Chỉnh là ông bác của tiến sỹ Nguyễn Hữu Chính.
Trong tình hình tư liệu về ông khan hiếm như vậy, cuốn Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnhcủa Phan Trần Chúc giúp ta tiếp cận gần hơn chân dung của một nhân vật lịch sử, một tác giả văn học mà theo chúng tôi chưa được đánh giá đúng mức. Bên cạnh nguồn tư liệu ít ỏi đã qua khúc xạ của người viết, chúng tôi về làng Cổ Đan thu lượm được một số thông tin về ông.
Những gam màu huyền thoại
Theo Phan Trần Chúc, Nguyễn Hữu Chỉnh là người lừng lẫy một thời, thế tất khó tránh được tấm màn thần bí mà người ta vẫn buông xuống xung quanh hầu hết các danh nhân của lịch sử.
* Truyền rằngNguyễn Mẫn gia tư rất giàu có. Về đời Lê Hiển Tông, có một năm Bắc Hà mất mùa, dân cư bị đói kém đến cùng cực. Trái lại, hai trấn Thanh và Nghệ thì sung túc không biết nhường nào. Triều đình liền hạ lệnh cho hai trấn Đường trong phải chở thóc kho ra cứu tế cho Bắc Hà. Trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Như Châu cho đòi nhiều người đến giao việc chuyên chở nhưng không ai chịu đi. Duy có Nguyễn Mẫn khảng khái xin đảm nhiệm việc ấy, công việc hoàn tất, Nguyễn Mẫn được thưởng rất nhiều tiền thành ra giàu có.
Nguyễn Mẫn đã cao tuổi mà chưa có con trai, lại rất tin phong thuỷ. Nghe nói viên Giám sinh họ Đỗ ở miền ấy bắt được thanh nang bí quyết nên rất giỏi về môn địa lý, ông mời kỳ được nhờ tìm cho một huyệt mả. Tìm kiếm ít lâu, Đỗ Giám sinh báo cho Nguyễn Mẫn biết là đã tìm thấy hai huyệt mộ ở huyện Can Lộc:
Côn dược tam thiên, công hầu miên miên
(Cá côn vượt ba nghìn, đời nào cũng có công, hầu)
Huyệt thứ hai ở núi Bằng:
Bằng đoàn cửu vạn, thiên hạ đại loạn
(Chim bằng bay chín vạn, thiên hạ đại loạn)
Nguyễn Mẫn xin táng ở Bằng Sơn, nên thầy địa lý lại đoán:
Nhất phát bất như tái phát, tái phát bất như tam phát, kinh thiên động địa.
(Phát lần thứ nhất không bằng lần thứ nhì, thứ nhì không bằng thứ ba, long trời lở đất).
Lần theo “tín hiệu xanh” từ mảng màu huyền thoại, chúng tôi xác định Bằng Sơn thuộc huyện Can Lộc xưa, nay thuộc địa phận xã miền biển Thạch Bằng, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, cư dân trong vùng quen gọi Bằng Sơn là núi Bờng. Phải chăng Nguyễn Hữu Chỉnh lấy tên ngọn núi Bằng thuộc dãy Hồng Lĩnh làm tên chữ Bằng Lĩnh Hầu?
Về vị Giám sinh họ Đỗ giúp Nguyễn Mẫn lấy huyệt mộ, giữa tháng 12/2007, chúng tôi tìm vào nhà thờ cụ Tổ chi họ Đỗ Hoàng Văn ở xóm 2 xã Thanh Mai huyện Thanh Chương. Tại phần Phụ lụccuốn gia phả họ Đỗ chép các kỳ tích của tổ tiên có nói rõ về vị Giám sinh này (trích):
“....Tương truyền, dòng dõi có Giám sinh Đỗ Công Bàn rất giỏi địa lý phong thuỷ, được bố của Nguyễn Hữu Chỉnh (người làng Cổ Đan xã Đông Hải huyện Chân Phúc) mời chọn lấy huyệt đất. Công Bàn đã điểm cho huyệt đất “phát tướng” ở núi Côn Bằng, về sau Nguyễn Hữu Chỉnh thành tướng giỏi lừng lẫy Bắc Hà, được Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ tiếp đãi hàng thượng khách. Chuyện này cũng được Phạm Đình Hổ nói trong sách Tang thương ngẫu lục..”.
Như vậy có thể khẳng định việc Nguyễn Mẫn nhờ Giám sinh Đỗ Công Bàn chọn lấy huyệt mộ là có thật.
* Truyền rằng: Khi bà chánh thất Nguyễn Thị Hùng Nhị sinh Nguyễn Hữu Chỉnh, Đỗ Công Bàn sang thăm nghe tiếng khóc, lắc đầu nói:
- Ngày sau loạn thiên hạ tất là thằng bé này. Thật tội ở ta nhiều lắm.
Đầy tuổi nôi, Nguyễn Hữu Chỉnh tự nhiên khóc ròng rã mấy ngày trời. Hết cha mẹ lại đến chú bác, xóm giềng chuyền tay nhau mà bế, nhưng ai dỗ cũng không nín. Chợt có một người con gái xinh đẹp tự xưng là cô Lự đi qua, xin vào dỗ giúp. Nguyễn Mẫn không biết làm thế nào cho con nín, đành liều trao phó con mình cho cô. Cô Lự bồng Chỉnh trong lòng ru:
Rau răm một cụm ba đồng
Anh đi xứ Quảng xứ Đông chưa về
Bao giờ răm mọc rậm rì
Anh ra xứ Bắc gửi yếm đào về cho em
Cô Lự ru hết bốn câu trên thì Nguyễn Hữu Chỉnh nín bặt. Bốn câu này về sau đúng với sự nghiệp của Nguyễn Hữu Chỉnh. Tục truyền cô Lự là Thần nữ núi Vu Sơn bên Tàu, khi một vị Thám hoa là Nguyễn Lai Thạch sang sứ Yên Kinh có qua núi này, Thần nữ núi Vu Sơn hiện lên trêu ghẹo ông, rồi theo ông về Nam và lấy tên là cô Lự (???)
![]() |
Miếu điện Đông Hải được dân tái dựng. |
Vài nét của một văn tài
Không chỉ là một nhà quân sự thao lược, Nguyễn Hữu Chỉnh còn là một văn tài xứ Nghệ được giới sỹ phu Bắc Hà đương thời nể phục. Ông để lại một số tác phẩm văn học như Ngôn ẩn thi tập, Văn tế chị, Phú Trương Lưu hầu, Phú Quách Tử Nghi, và nhiều bài thơ câu đối được hậu thế tâm đắc. Nguyễn Hữu Chỉnh thuộc lớp nho sĩ khoác áo quan trường tích cực nhập thế, định hướng vào hoạt động chính trị, hy vọng và tin tưởng vào thiên chức cứu thế của mình. Nhưng ông không thể nhận ra rằng mình chỉ là công cụ của giai cấp phong kiến thống trị đang buổi suy vi, ở đó chế độ sủng thần từng ký sinh trong cung Vua phủ Chúa qua các vương triều, đục nước béo cò tác oai tác quái. Giữa bối cảnh ấy, việc ông nung nấu ý chí hoài bão, muốn khẳng định tài năng cống hiến cho dân cho nước, khác nào tự biến mình thành cái “gai” trong mắt những sủng thần. Mặc dù ông không còn sống để trả lời, song hậu sinh vẫn có quyền nghi vấn về cái thời ông phụng sự.
Vì sao trong khi không ít nhà Nho thực hiện lời dạy của thầy Khổng Tử: ..Nước đang nguy thì không nhập, nước đang loạn thì chớ ở. Thiên hạ có Đạo thì xuất hiện, không có Đạo thì tránh đi. Ở nước có Đạo mà mình nghèo và hèn thật đáng xấu hổ. Ở nước vô Đạo mà mình giàu sang cũng xấu hổ…, và số đông nho tạm lui về cuộc sống ẩn sĩ, âm thầm gửi chí hướng hoài bão vào thơ ca, vào đất, trời, sông, núi … thì Nguyễn Hữu Chỉnh lại xông ra đối diện với thực tại của xã hội đầy sóng gió bão tố ấy?
Văn là người, qua một số sáng tác hiện còn, hậu thế ghi nhận ông là vị đại quan mang tâm hồn thi sĩ, việc ông tham gia đánh Đông dẹp Bắc cũng vì :
Vớt chim dẹp cháy cứu muôn dân
Khi binh nghiệp ở đàng Ngoài chưa hiển đạt, ông buồn bực chứng kiến những chuyện trái ngang trên trời dưới đất mà bất lực, ông đành gửi tâm trạng vào thơ:
Trời đã trộm sinh vào cửa Trịnh
Cũng hay ra đến ở cành Lê
Tóc chen hai thứ chửa danh chi
Thân hỡi là thân thì hỡi thì…
Là đại quan khí khái, không những đưa sức mạnh to lớn ấy vào thơ, ông còn khuyên răn những kẻ ngồi mát ăn bát vàng không thấy được sức mạnh to lớn của nhân dân:
Can cân giữ mệnh dân làm trước
Lấy dân là báu nước chớ khinh
(Thơ tự đề)
Là nho sỹ sống ở thời kỳ mà xã hội phong kiến đang trên đà rạn vỡ, ông khó mà vượt khỏi ý thức hệ Nho giáo để nhận biết rằng, những trí thức Nho học nếu được bộ máy quyền lực đương thời sử dụng, thì trước hết là để nêu gương về đạo đức, tạo ra lớp người - công cụ phục vụ cho giai cấp phong kiến thống trị các vương triều mà thôi. Giai cấp phong kiến thống trị không hoàn toàn sử dụng tài năng của những nho sĩ như ông vào đúng mục đích xây dựng nước mạnh, dân giàu.
Nhưng ở thời đó, dù ông có thông minh hơn người cũng không nhận ra hạn chế của lịch sử, đó là: Tầng lớp nho sĩ đương thời đã trót nương vào các thế lực phong kiến để mong thi thố hoài bão tài năng, xác lập vị thế cống hiến cho đời. Oái oăm thay, ông thừa biết bi kịch triều Lê đã trút xuống gia tộc Nguyễn Trãi với vụ án Lệ Chi Viên ròng ròng máu chảy, vậy mà ông lại để bi kịch đến với mình ở tuổi 46 khi tài năng đang nở rộ. Phải chăng ông sống hết mình vì khát vọng lớn lao, ông cũng sẵn sàng chấp nhận xả thân vì khát vọng lớn lao ấy? Là nhà quân sự thao lược kiêm văn tài của xứ Nghệ, cuộc đời sớm gánh chịu bi kịch, ông để lại cho đời một số tác phẩm văn học được hậu thế tâm đắc.
Văn là người, qua một số tác phẩm còn sót lại người đời có cơ sở để hiểu đúng hiểu đủ về ông hơn. Cư dân làng Cổ Đan truyền nhiều chuyện về ông: hào hoa phóng khoáng, giao du rộng rãi, vừa có tài hùng biện của một chính khách vừa có chất phong lưu hào sảng của một văn nhân. Trong tư dinh tại làng Cổ Đan, ông nuôi vài chục người hầu tuổi mười tám đôi mươi, vừa giỏi tề gia nội trợ vừa giỏi đàn hát để góp vui cùng những văn tài hiền sĩ trong vùng là bạn thân của ông. Khi nhà có đại tiệc, ông cho người đến làng ca trù Cổ Đạm bên Nghi Xuân mời tốp đào kép đào nương về nhà, biểu diễn thâu đêm các sáng tác mới của ông và của văn tài bạn hữu. Sở thích đam mê văn chương, lối sống phóng khoáng của ông được lưu tại đôi câu đối hiện treo trong nhà thờ chi nhánh Nguyễn Hữu do ông Nguyễn Hữu Vinh làm tộc trưởng:
Văn chương thiên cổ báu
Hiếu hữu nhất tâm sinh.
Tạm dịch: Văn chương muôn đời quý. Sống hiếu hữu làm đầu.
Sống trong cảnh trộm sinh vào cửa Trịnh ra đến ở cành Lê,vào luồn ra cúi nơi ngai Vua phủ Chúa đàng Ngoài, dù than thân trách phận nhưng thơ ông vẫn toát lên thần thái của một nho sĩ tài năng, không cam chịu cát lầmvới đám quan lại sủng thần.
Câu thơ của ông viết từ thời ấy mà như mới viết ở thời nay:
Cá nọ mèo tha đầy kẻ đuổi
Lợn kia hùm bắt mấy ai ngăn
(Vô đề)
Cư dân Phúc Thọ tự hào về ông - một văn tài võ tướng lừng lẫy Bắc Hà. Ông là người tác thành để Quang Trung lấy được công chúa Ngọc Hân, nhờ đó văn học nước nhà có một Ai tư vãnđể đời. Là đệ tử của Nho giáo, lại sống ở giai đoạn lịch sử đầy biến cố và bất trắc, khi lui về Nghệ An chờ thời ông đã theo lời dạy của thầy Mạnh Tử mà đối nhân xử thế: Cùng, tắc độc thiện kỳ thân; Đạt, tắc kiêm thiện thiên hạ. (Lúc khốn khó giữ gìn lấy chữ thiện cho riêng mình; lúc thành đạt thì làm điều thiện cho cả thiên hạ). Khi ở đỉnh cao hiển đạt ông vẫn “ quyền bất thất kinh” (quyền biến mà không làm mất đạo lý kinh nghĩa), điều này được cụ thể qua việc ông huy động hơn 1 vạn dân binh xây mới toà điện Đông Hải ngay tại làng Cổ Đan.
Cố Trưng (1890-1968) người làng Cổ Đan kể rằng: Cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14, ngư dân 2 làng Cổ Đan, Lộc Thọ tôn hai vị anh hùng dân tộc Yết Kiêu và Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn làm Thuỷ tổ nghề sông nước, họ dựng cái am nhỏ bên bờ sông Lam thờ hai vị nhân thần. Chiếc am nhỏ tồn tại trên dưới 400 năm, đến giữa thế kỷ 18 lúc đắc thế, Hữu quan đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh có trong tay vạn binh, trong thời gian về chuẩn bị cứ địa tại Nghệ An đã huy động xây mới toà Điện Đông Hải ngay trên vị trí cái am cũ. Toà Điện Đông Hải được người đương thời xếp vào hàng “đệ nhất” của hệ thống công trình kiến trúc văn hoá - lịch sử - tâm linh của xứ Nghệ. Hai vị nhân thần mà Nguyễn Hữu Chỉnh lập đền thờ đều là "Thượng đẳng tối linh tôn thần, thập nhất thôn phụng tự "(tức 11 thôn của xã Đông Hải cũ gồm Lộc Thọ, Cổ Đan, Cổ Bái, Phúc Lợi, Lộc Châu, Lộc Hải, Xuân Dương, Mỹ Lộc, Nam Sơn, Hải Yến, Chính Vị đều cúng ở đền này). Ngày nay chỉ còn lại 4 /11 thôn gồm Cổ Đan, Cổ Bái, Lộc Thọ, Phúc Lợi thuộc xã Phúc Thọ, 7 thôn còn lại thuộc về các xã Nghi Xuân, Nghi Thái, Nghi Phong.
Lúc thành đạt ông làm chữ thiện “cho cả thiên hạ” bằng việc xây mới Toà điện thờ hai vị nhân thần có công lớn thời Trần, đó là sự cụ thể hoá cái tâm lớn của một nhà thơ hào phóng, cái tầm lớn của một nhà quân sự tài năng. Tiếc thay đến giữa thế kỷ 20, toà Điện Đông Hải và ngôi nhà thờ ông do hậu duệ lập đã bị vùi lấp.
Mới rồi tôi về làng Cổ Đan, nghe tin Cảng K34 Hải quân đồng ý cho mấy hộ dân xóm 6 gốc làng Cổ Đan xưa tái lập am thờ hai vị nhân thần của dân tộc tại vị trí Điện Đông Hải xưa. Ông Trần Vân Nam và tôi được cảnh vệ quân Quân Cảng đồng ý cho vào xem. Chúng tôi lặng nhìn cái am thờ tí tẹo nằm sát gốc cây sung, tại vị trí cổng chính của Toà Điện Đông Hải ngày xưa, cách chân cầu Cảng vài ba chục mét. Thì ra, trót đánh mất bạc nén vàng ròng sẽ có ngày tìm lại được vàng ròng bạc nén, đã đánh mất công trình kiến trúc văn hoá thì không dễ tìm lại nữa.
Cũng vậy, cuộc đời trót phôi pha mờ nhạt chân dung võ tướng văn tài Nguyễn Hữu Chỉnh. Đã 221 năm kể từ khi ông mang ý chí hoài bão về cõi vĩnh hằng, thời gian ấy đủ để hậu thế bình tĩnh, khách quan, bóc tách những hạn chế lịch sử có ở mỗi thời mỗi cuộc, để nhìn nhận lại chân dung một con người mà khi sống đã phải đứng dưới chân cột đèn không được sáng.