Vịnh Hạ Long
Tên Hạ Long (rồng đáp xuống) mới xuất hiện trong một số thư tịch và các bản đồ hàng hải của Pháp từ cuối thế kỷ XIX. Trong khoảng thời gian đó, trên tờ Tin tức Hải Phòngxuất bản bằng tiếng Pháp có bài viết về sự xuất hiện của sinh vật giống rồng trên khu vực là vịnh Hạ Long ngày nay với nhan đề Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ Long, khi viên thiếu uý người Pháp Legderin, thuyền trưởng tàu Avanlence cùng các thuỷ thủ bắt đầu gặp một đôi rắn biển khổng lồ ba lần (vào các năm 1898, 1900 và 1902) (Theo VHNT Quảng Ninh). Có lẽ người Châu Âu đã liên tưởng con vật này giống như con rồng châu Á, loài vật huyền thoại được tôn sùng trong nền văn hoá Việt Nam nói riêng và văn hoá các nước đồng văn châu Á nói chung. Bên cạnh những truyền thuyết của Việt Nam về Rồng Mẹ và Rồng Con đáp xuống khu vực vịnh đảo vùng Đông Bắc này, sự xuất hiện của con vật lạ hiện hữu như rồng trong thực tại, có thể đã trở thành các lý do khiến vùng biển đảo Quảng Ninh được Người Pháp gọi bằng cái tên vịnh Hạ Long từ đó và phổ biến cho đến ngày nay.
Khi miền Bắc Việt Nam được giải phóng, các nhà khoa học nước ta và các chuyên gia khảo cổ học Liên Xô đã tiền hành nhiều cuộc thám sát điều tra trên diện rộng, qui mô lớn trong khu vực vịnh Hạ Long và vùng lân cận. Những cuộc khảo sát năm 1960 đã phát hiện tại di chỉ Tấn Mài trên vùng Vịnh những mảnh ghè của người vượn và tiếp đó khai quật được những mũi tên đồng từ thời Hùng Vương. Những kết quả nghiên cứu đó đã cho phép khẳng định về một nền văn hoá Hạ Long cách nay khoảng 3.500 - 5.000 năm.
Từ năm 1960 đến nay, sự thám sát và nghiên cứu rộng mở về khảo cổ học, văn hoá học tại trên 40 địa điểm, bao gồm trong đó Đồng Mang, Xích Thổ, Cột 8, Cái Dăm (thành phố Hạ Long), Soi Nhụ, Thoi Giếng (Móng Cái), Hà Giắt (Vân Đồn), hòn Hai Cô Tiên.. đã đưa đến kết luận quan trọng chứng minh sự tồn tại của người tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long lùi xa hơn. Không chỉ có một văn hoá Hạ Long từ 3 - 5 thiên niên kỷ trước, còn có nền văn hoá Soi Nhụ cách ngày nay trong khoảng 18.000 - 7.000 năm trước Công nguyên, phân bố rộng trong khu vực vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long với các di chỉ tiêu biểu tại Mê Cung, Tiên Ông, Thiên Long. Các di vật còn lại chủ yếu là sản phẩm đã được sử dụng làm thức ăn như ốc núi (cyclophorus) và ốc suối (melania), một số hoá thạch của nhuyễn thể nước ngọt và một số công cụ lao động thô sơ tích tụ cấu tạo thành tầng văn hoá. Các nhà khoa học nhận thấy, phương thức sống chủ yếu của cư dân Soi Nhụ là bắt sò ốc, hái lượm, đào củ, đào rễ cây, biết bắt cá nhưng chưa có nghề đánh cá. So sánh với các cư dân văn hoá Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn đương thời thì cư dân Soi Nhụ sống gần biển hơn nên chịu sự chi phối từ biển nhiều hơn, trực tiếp hơn.
Bên cạnh nền văn hoá Soi Nhụ không thể không nói đến văn hoá Cái Bèo, cách đây khoảng từ 7.000 – 5.000 năm trước Công nguyên, được coi như giai đoạn gạch nối giữa văn hoá Soi Nhụ trước đó và văn hoá Hạ Long về sau. Di chỉ khảo cổ Cái Bèo tập trung chủ yếu thuộc đảo Cát Bà (Hải Phòng) và Giáp Khẩu, Hà Gián thuộc vịnh Hạ Long. Văn hoá Cái Bèo là một trong những bằng chứng chắc chắn về sự đương đầu với biển khơi từ rất sớm của người Việt cổ, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố, sắc thái khác biệt vào một dòng văn hoá đá cuội truyền thống rất lâu đời trong khu vực Việt Nam và Đông Nam Á. Phương thức cư trú và sinh sống của người cổ đại Cái Bèo ngoài săn bắt hái lượm đã có thêm nghề khai thác sản vật từ biển.
Tiếp nối không gián đoạn trong suốt tiến trình sơ sử, ba nền văn hoá mang tên Soi Nhụ - Cái Bèo - Hạ Long trên khu vực vịnh Hạ Long chứa đựng những giá trị nhất định, cho thấy vịnh Hạ Long và khu vực lân cận một thời đã từng là một cái nôi văn hoá của nhân loại. Những đặc điểm của nền văn hoá này chứa được giải mã toàn diện, và những kết qủa thám sát khảo cổ trong những năm gần đây vẫn tiếp tục hé lộ những bất ngờ mới mà một trong số đó là sự phát hiện di chỉ Đông Trong vào năm 2006. Trong một hang động của Đông Trong, các nhà khảo cổ học phát hiện được di cốt người tiền sử, rìu đá, mảnh nồi gốm, trầm tích nhuyễn thể được sử dụng làm thức ăn và hàng trăm hạt chuỗi làm từ võ ốc, là một trong ba khu vực trên vùng vịnh Hạ Long tìm thấy di cốt người tiền sử sau Soi Nhụ và hòn Hai Cô Tiên.
Vịnh Hạ Long là nơi gắn liền với những trang sử của nhân dân Việt Nam trong suốt thời kỳ dựng nước và giữ nước với những địa danh như Vân Đồn, nơi có hải cảng cổ tại miền Bắc Việt Nam vào thế kỷ 12. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự hình thành thương cảng Vân Đồn:
“Kỷ Tỵ (Đại Định) năm thứ 10 (1149). Mùa xuân, tháng hai, thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào cảng Hải Đông (vịnh Hạ Long) xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hoá quí, dâng tiến sản vật địa phương”.
Bên cạnh thương cảng Vân Đồn, tại vùng vịnh Hạ Long còn có Núi Bài Thơ lịch sử, nơi lưu lại bài thơ chữ Hán của vua Lê Thánh Tông khắc trên đá từ năm 1468, nhân chuyến tuần du vùng biển phía Đông; và bút tích của cháu Trịnh Cương vào năm 1729. Khu vực Bãi Cháy phía bờ Tây của Vịnh, tương truyền gắn với sự tích những chiến thuyền chở lương thực của quân Nguyên – Mông bị quân dân nhà Trần do Trần Khánh Dư chỉ huy đốt cháy, dạt vào làm cháy cả cánh rừng trong khu vực. Trên Vịnh còn có hang Đầu Gỗ, nơi còn vết tích hiện vật là những cây cọc gỗ được Trần Hưng Đạo cho đem giấu trước khi đóng xuống lòng sông Bạch Đằng, và cách Vịnh không xa là cửa sông Bạch Đằng, chứng tích của hai trận thuỷ chiến trong lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc. Cách đây hơn 5 thế kỷ, cụ Nguyễn Trãi đi ngang qua khu vực này lần đầu tiên đã ca ngợi vịnh Hạ Long là kỳ quan. Cụ đã viết trong bài Lộ nhập Vân Đồn:
Lộ nhập Vân Đồn san phục san
Thiên khôi địa khiết phó kỳ quan
(Đường tới Vân Đồn lắm núi sao!
Kỳ quan đất dựng giữa trời cao)
Hiện nay vịnh Hạ Long rất xứng đáng để đứng vào danh sách các kỳ quan thiên nhiên của thế giới.
Tài liệu tham khảo:
1.Lịch sử địa chất vịnh Hạ Long , Ban Quản lý VHL, 1999.
2.Địa chí Quảng Ninh, t3, TU – UBND tỉnh Quảng Ninh, 2003.
3.Những di sản nổi tiếng thế giới, Nxb VHTT, 2000.
4.Văn hoá Nghệ thuật Quảng Ninh: Từ một góc nhìn, QN 2003.
5.Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb KHXH, 1985.








