Vì sao ở Nam Bộ không gọi con đầu là con cả?
Vì đạo “hiếu”, người con trưởng (nhất là trưởng nam) không thể rời xa bố mẹ già, không thể từ bỏ phần ruộng “hương hoả” thiêng liêng, để chăm lo việc giỗ chạp, mồ mả, thờ cúng tổ tiên… Trong mỗi gia đình (truyền thống) giã từ cố hương, đi tìm vùng đất mới để neo đậu, chỉ có thể là người con thứ hai trở đi. Và ở miền đất ấy, Anh Hai là người đứng đầu. Tập quán gọi người con đầu lòng là “Anh Hai, chị Hai” thực sự là nét văn hoá đặc thù của lưu dân Việt ở đồng bằng sông Cửu Long.
Tập quán đó đã tạc vào ngôn ngữ và lịch sử một dấu ấn về kỷ cương của gia đình Việt cổ truyền ở nửa sau thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, gợi ý trên đây của Dân tộc & Thời đại cũng chỉ nhằm mục đích giúp cho độc giả rộng đường dư luận.
Vì sao ở Nam Bộ không gọi con đầu là con cả?
Có cách giải thích, ở miền Nam không gọi con đầu lòng là con cả vì kiêng trùng “thứ cả” Hoàng tử Cảnh, con của Vua Gia Long. Lý giải như vậy e khiên cưỡng! Bởi lẽ nào dân gian cữ thứ mà không cữ tên? Trên thực tế, ở miền Nam có vô số người tên Cảnh. Hoặc hơn thế nữa, tên Ánh (Nguyễn Ánh), tên Long (vua Gia Long), hoặc các vua kế tiếp như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… Vậy thì duyên do nào? Tục lệ có thể bắt bầu từ câu chuyện cách nay đã trên 200 năm…
Cứ vào gia phả của Nguyễn tộc (phủ thờ tại ấp Bình Quới, xã Bình Phước, tỉnh An Giang) thì gia đình cụ Nguyễn Văn Núi gốc Bình Định vào Nam năm nào không rõ, chỉ biết trước khi định cư ở cù lao Riêng, họ đã có thời gian sinh sống trên một vùng đất ngang đó, bên kia bờ của một nhánh sông Tiền, nay có tên là xã Mỹ An.
Đó là nơi mà trước kia còn hoang vu, ngoài một vài mái tranh nghèo lụp xụp tạm dựng trên giồng dọc theo bờ sông, với miếng ruộng nhỏ sau hè và chiếc xuồng con cột hờ dưới bến…. hầu như gia sản của lưu dân ở đây chẳng có gì để kể thêm được!
Không như những người đi xây vùng kinh tế mới ngày nay, hình ảnh phổ biến nhất của lưu dân thời ấy là “ vai mang chiếc nóp rách, tay xách cổ quai chèo”, có nghĩa là chỉ hai bàn tay trắng!
Số phận của những người đi khai hoang thật bơ vơ, buồn tẻ! Cho nên, không ít người đã tự tạo cho mình một chỗ dựa tinh thần để hỗ trợ niềm tin trong cuộc sống. Cụ Núi dựng lên một ngôi chùa nhỏ, đơn sơ, chắc cũng không ngoài mục đích ấy - “Chùa Giáo Hà” ngày nay toạ lạc trên nền ngôi chùa xưa của cụ Núi.
Cũng như hầu hế những lưu dân khác, lúc gia đình cụ Núi đến chiếm ngụ thì vùng đất hoang dã ấy hãy còn đầy cỏ dại và tre rừng. Vì vậy, ngoài công việc chính là khẩn hoang để trồng lúa, trồng màu, người dân phải đi săn bắn thêm thú rừng mới có thể xoay trở đủ miếng cơm manh áo.
Cuộc sống của họ thường ngày phải đương đầu với sơn lam, chướng khí, thú dữ như cọp, sấu kể cả trâu rừng… Một ngày nọ tai hoạ đến với gia đình nhà họ Nguyễn như một tin sét đánh: người con cả của cụ Núi, trong lúc đi săn ở cù lao Riêng, đã bị cọp vồ mất xác!
Sau mấy ngày tuy tìm khắp cùng rừng bụi, không thấy dấu vết người thân, cả nhà vô cùng thương tiếc! Hai cụ tự thấy có trách nhiệm phải vui lòng người con nơi chín suối, đồng thời cũng để trừ hậu hoạ (dân gian tin rằng trong gia đình, nếu có một người bị cọp ăn thịt như vậy thì lần lượt, cả nhà đều sẽ bị cọp vồ, gọi là “ có noi” hay “ có huông”) nên hai cụ (cụ Núi và cụ bà quyết chí tìm diệt cọp).
Thế là căn chòi nhỏ được dời hẳn sang cù lao, đóng trên một giồng đất cao bìa rừng, ngay bên bờ sông. So với chốn cũ, cảnh vật hoang vu, lặng lẽ hơn, cây cối và thú rừng cũng nhiều hơn.
Hai cụ có cả thảy 5 con trai. Ngoài con cả đã bị cọp vồ, những người kia bản tính gan dạ không kém anh mình, nhất là người con kế, tên Thư, một thanh niên sau này trở thành võ tướng, chết trận năm 1801, được truy tặng tước hầu (Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư) nay hãy còn bằng sắc, mồ mả và đền thờ ở xã Bình Phước Xuân (Cù lao Riêng).
Hôm ấy, ông Thư cùng mẹ là bà Lê Thị Nhạc bơi xuồng xuống Cái Nhum, miệt Hổ Cứ (nay là xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp), nơi có một số người đồng hương từ miền ngoài vào định cư tại đó, để trước là trao đổi lương thực, sau thăm nom, bàn chuyện sinh kế. Và cũng do thấy ở đây có nhiều thổ sản cau, dừa…. nên thường lui tới mua đi bán lại kiếm thêm tiền độ nhựt. Sau mấy chuyến, ông Thư phải lòng một cô thôn nữ ở đây. Thế là hai bên song thân cho làm lễ tác hợp. Vợ ông Thư là gái duy nhất trong gia đình, nên qua trao đổi, bàn bạc, ông Thư ở lại bên vợ cho tiện. Ông vâng lời, nhưng vẫn thường bơi xuồng lên xuống thăm cha mẹ. Mỗi lần về nhà, những người em của ông đều hết sức vui mừng, vì ông thường lén bày nhiều cuộc vui đầy mạo hiểm, có lẽ hấp dẫn nhất là những lần tổ chức đi săn mèo rừng và cả … cọp!
Sau, cụ Núi biết, cả giận, rầy đánh răn đe rất dữ. Song, do bản tính ham vui, lại can đảm, nên có lần tình cờ các ông đã tái phạm! Một hôm, các anh em rủ nhau xuống rạch Ngang (nay gọi kinh Ngang) chặn đăng chờ nước ròng bắt cá. Khi ròng sát, lòng rạch bày bùn, cá to kẹt lại trong đăng rất nhiều, nhưng chưa kịp xuống bắt thì đã thấy một con cọp lội xuống phỗng tay trên. Mấy anh em tức quá, không biết phải làm sao, đành mở đăng, chờ con nước tới. Chiều gần tối, đúng vào lúc lòng rạch bày bùn, cọp lại đến chực sẵn trên bờ, nhưng lần này lại không có cá. Cọp bỏ đi. Trước sự thắc mắc của những người em, ông Thư giải thích: “Do có nước miếng của cọp nhễu nên cá sợ, tránh đi hết”. Thế là hôm sau mấy anh em ông Thư dời đăng xuống rạch Cái Dứa. Lần này ông Thư bảo người em út xuống rạch núp sẵn vào lùm cỏ, nếu thấy cọp xuất hiện thì gây tiếng động như cá lớn mắc cạn, nhử cho nó lội xuống đăng, các anh sẽ ra tay giết cọp!
Quả nhiên, sự việc diễn ra đúng như dự đoán, anh em ông Thư hè nhau đập chết tươi con cọp bị mắc lầy một cách khá dễ dàng. Tuy thầm khen ông Thư biết bày kế nhử cọp, nhưng cụ Núi không thể không la rầy dằn mặt tính hiếu thắng, bồng bột của tuổi trẻ, vì không khéo sẽ mất mạng như chơi!
Trở lại đối vơi cụ Núi, việc trả thù cọp phải được tổ chức chu đáo. Phải giết cho được cọp chúa bằng một kế hoạch thật tinh khôn, chính cụ chủ động, chỉ huy.
Một ngày nọ, sau khi đã theo dõi dấu chân hổ dữ, và đã chọn được địa điểm thuận lợi, cả nhà nhanh chóng bày thế trận. Cụ Núi giỏi võ nên nhận lãnh phần xuống lung bắt cá làm mồi nhử cọp. Bốn người con trai nấp bốn phía, lập thế tứ trụ hỗ tương. Riêng cụ bà có tài bắn cung bách phát bách trúng, nên nấp vào một bụi tre rừng gần đó để đảm nhận phần việc của mình.
Trời chiều không gió, bốn bề yên lặng như tờ, vài ngọn cỏ lau đột nhiên từ từ ngả xuống. Tiếng gãy giòn của mấy cây đế khô nghe rõ mồn một, càng lúc càng gần, rồi yên lặng. Một thứ yên lặng dễ hiểu với những người thợ săn cọp đang quan sát. Không ai bảo ai, mọi người nín thở, tập trung, hồi hộp…
Xoạc! Cọp vừa phóng mình lao tới thì đá táp đúng một mũi tên tẩm thuốc độc của cụ bà! Cọp lồng lộn giãy giụa, làm rạp cả đám nghể lớn ở bờ lung. Sau hơn một khắc nặng nề trôi qua, không thấy có cọp khác đến tiếp cứu, cụ Núi ra hiệu lệnh, mọi người mới chịu rời khỏi vị trí, vác cọp về.
Buổi đầu khai hoang, đối với lưu dân, chuyện “hùm tha sấu bắt” là một tai hoạ hãi hùng. Cho nên, qua sự kiện người con cả của cụ Núi bị cọp vồ mất xác, xuất phát từ cách hiểu “sợ có huông” của dân gian như đã nói, người ta bảo rằng từ lúc ấy, ai nấy rất kiêng dè, không dám gọi con đầu lòng của mình là “cả” nữa. Và, như một quy ước của xã hội, dân gian bắt đầu tính kể thứ của các con trong gia đình mình theo cách mới, trước hết là “thứ hai”, rồi “thứ ba”, “thứ tư” cho đến “thứ… út”.
Chuyện trở thành một tục lệ rất đặc trưng của miền Nam , được nhân dân lưu truyền cho đến ngày nay. Do vậy ở Nam Bộ đồng bào không gọi con trưởng trong gia đình là con cả.
Giai thoại vừa kể muốn lý giải một tập tục trong xã hội miền Nam , dựa vào những luận cứ sau đây:
- Một là hợp lý hơn thuyết cho rằng dân gian tránh gọi trùng (kiêng) thứ cả của Hoàng tử Cảnh trong khi vẫn có người đặt gọi tên trùng với tên vua, chúa.
- Hai là có tư liệu, người thật việc thật xảy ra tại một địa phương là một trong những nơi lưu dân đến khai phá, sinh tụ sớm nhất, mà cho đến nay, không ít ông bà cả ở địa phương nơi ấy vẫn còn bảo lưu khá nhiều vết văn hoá đặc trưng trong sinh nhật, như vẫn nhắc dùng luật “bát, cạy”do ông Nguyễn Cư Trinh đặt ra từ thời vua Gia Long (Hai ghe ngược chiều, nếu có nguy cơ va chạm nhau thì người đi ghe nào cũng phải hô to “bát”, tức là phải lái cho ghe về phía tay mặt của mình để tránh tai nạn. Còn nếu đang mắc cạn hoặc vì lý do bất khả kháng, không thể “bát” được thì phải hô to “cạy” để ghe kia biết mà tránh). Nhất là cho đến nay vẫn còn nghe những vị kỳ lão ở “miệt dưới” gọi người vùng này là “dân hai huyện” (Tân Bình và Phước Long) với ý ca ngợi nơi đã sớm hình thành một xã hội nề nếp, đáng ngưỡng mộ.
- Ba là có tính lịch sử, vì những nhân vật chính trong chuyện kể cho đến nay vẫn còn mồ mả, đền thờ và bằng sắc tại ấp Bình Quới, xã Bình Phước Xuân, hàng năm đều diễn ra lễ cúng vào các ngày 25, 26, 27 - 6 âm lịch với nghi thức trọng thể như lễ Kỳ yên.
Cũng cần nói thêm, cụ Ba Do (Miêu duệ của Thư Ngọc Hầu) quả quyết rằng, hồi nhỏ, cụ ông và thân sinh của cụ thường dạy nói cù lao ấy là “Cù lao Riêng”; phải “đánh lưỡi”, làm biếng đánh lưỡi thì thành “Cù Lao Diên”, y như nói đớt. Cụ nhắc lại lời giải thích của người xưa: “Riêng là riêng rẽ, hồi trước người ta sống ở đất liền, không bị cách trở bởi sông nước, chỉ có gia đình mình, vì cần diệt cọp để trả thù cho người anh cả, và cũng để tránh chuyện “có huông” sau này cho con cháu nên gia đình mới dọn sang đây. Lúc bấy giờ cù lao này chưa có tên, vì hầu như chưa có ai đến ở, coi như ra riêng, sống riêng, vì vậy trước hết nó có tên là “Cù Lao Riêng”. Điều này có thể đúng. Lại nữa, gần đây thấy trên Tạp chí Xưa & Nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cũng ghi là Cù Lao Riêng (Xưa & Nay, số 65B, tháng 7 - 1999, “Các chuyên khảo về Nam Bộ đầu thế kỷ XX).
- Bốn là có tính thời gian, vì chuyện xảy ra cách nay đã gần 250 năm, trước thời Nguyễn Ánh lẩn tránh Tây Sơn, tức ngay từ lúc miền Nam hãy còn hoang vu, vắng vẻ. Với chiều dài thời gian như thế, hoàn toàn phù hợp với sự kiện, cùng là điều kiện lưu truyền và toả rộng khắp của một phong tục đặc dị, chỉ có ở vùng đất phương Nam .
Nhắc lại giai thoại với những bằng chứng vừa nêu, thiết tưởng có thể góp phần giúp tìm hiểu duyên cớ “ ở Nam Bộ không gọi người con trưởng là con cả” vậy.