Vì sao hiệu lực quản lý về môi trường ở nước ta yếu kém?
1. Hệ thống luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập.
- Thứ nhất, hệ thống này chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, chồng chéo và mâu thuẫn nhau.Chẳng hạn, theo Điều 22, Luật Bảo vệ môi trườngnăm 2005, mục 4 quy định các dự án đầu tư chỉ được phê duyệt, cấp phép đầu tư, xây dựng sau khi có báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt hoặc bản cam kết BVMT đã được cấp giấy xác nhận. Trong khi đó, Luật Đầu tưnăm 2005 chỉ quy định các dự án phải đăng kí đầu tư có nội dung về cam kết BVMT và các dự án phải làm thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư có nội dung về giải pháp BVMT. Các quy định này không nêu rõ mức độ chi tiết, cụ thể của cam kết hoặc giải pháp BVMT, đặc biệt, không yêu cầu cần phải đánh giá tác động môi trường. Giữa Luật Bảo vệ môi trườngvà Luật Xây dựngcũng chưa có sự thống nhất. Theo Luật Bảo vệ môi trườngnăm 2005, thẩm quyền thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án quy định tại mục 7, Điều 21 và Điều 22, cụ thể là: các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND cấp tỉnh tổ chức thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định phê duyệt của mình (trừ các dự án liên tỉnh, liên ngành). Trong khi đó, Luật Xây dựngnăm 2003 và Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07-02-2005, Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29-9-2006 của Chính phủ lại quy định các dự án sử dụng nguồn vốn hỗn hợp, không phải là vốn của ngân sách nhà nước, thì các chủ đầu tư sẽ tự tổ chức thẩm định và quyết định đầu tư. Giữa Nghị định số 67/2003/NĐ-CP và Pháp lệnh về phí và lệ phínăm 2001 cũng mâu thuẫn nhau. Nghị định số 67/2003/NĐ-CP quy định 50% tổng thu từ phí BVMT được trích vào Quỹ BVMT Việt Nam . Trong khi đó, Pháp lệnh về phí và lệ phínăm 2001 lại quy định nguồn thu từ phí và lệ phí về cơ bản được giữ lại cho ngân sách địa phương sử dụng.
- Thứ hai, hệ thống văn bản pháp luật về BVMT, nhất là các văn bản hướng dẫn thi hành một số nội dung của Luật Bảo vệ môi trường chưa đầy đủ, thiếu cụ thể. Luật Bảo vệ môi trườngViệt Nam chưa quan tâm đúng mức tới môi trường nhân tạo, môi trường lao động cũng như việc xây dựng các luật về bảo vệ một số yếu tố môi trường cụ thể. Việc cụ thể hoá điều luật quy định trách nhiệm đóng góp tài chính cho BVMT, vấn đề bồi thường thiệt hại khi gây tổn thất cho môi trường vẫn còn bị bỏ trống. Điều này làm cho các cơ sở sản xuất - kinh doanh "coi thường pháp luật". Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 09-8-2006 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT cũng thiếu đấy đủ. Nghị định này đã bỏ qua rất nhiều hành vi vi phạm pháp luật về BVMT. Khung và mức phạt cho từng hành vi vi phạm cũng thiếu cụ thể, gây khó khăn cho thực hiện trên thực tế.
- Thứ ba, hệ thống pháp luật về BVMT còn nhiều điểm chưa phù hợp vớithực tế.Chẳng hạn, trong "sự kiện Vedan" nhiều ý kiến cho rằng có thể khởi tố hình sự công ty này. Thế nhưng, trong Bộ luật Hình sựnăm 1999 lại quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với thể nhân (cá nhân), không áp dụng đối với pháp nhân (tổ chức). Do đó, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Công ty Vedan. Chính sự bất cập này làm cho môi trường tiếp tục bị nhiều pháp nhân xâm hại. Bộ luật Hình sựsửa đổi, bổ sung năm 2009 được ban hành thay thế cho Bộ luật Hìnhsựnăm 1999, nhưng vẫn chưa khái quát hết tình hình tội phạm về môi trường trong thực tế. Nhiều quy định của Bộ luật vẫn còn chung chung, cần phải có hướng dẫn cụ thể.
- Thứ tư, việc ban hành một số văn bản pháp luật về BVMT, nhất là các văn bản hướng dẫn thi hành luật rất chậm trễ, thiếu kịp thời, khiến cho việc triển khai thi hành luật khó khăn, hiệulực thấp.Mặc dù Luật Môi trườngđược ban hành từ năm 1993, nhưng tới năm 1996 Chính phủ mới ban hành Nghị định số 26/NĐ-CP ngày 26-4-1996 về xử phạt vi phạm hành chính về BVMT và trên thực tế thì Nghị định này cũng không thực hiện được. Mãi tới năm 2003, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13-6-2003 về xử phạt vi phạm hành chính về BVMT đối với nước thải thay thế cho Nghị định số 26/NĐ-CP. Như vậy, sau 10 năm thực hiện Luật Bảo vệ môi trường,công tác QLNN về môi trường lần đầu tiên mới được áp dụng ở nước ta theo nguyên tắc của nền kinh tế thị trường là "người gây ô nhiễm môi trường phải trả tiền".
Như vậy, rõ ràng là sự thiếu đồng bộ, chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật về BVMT, sự không đầy đủ, không phù hợp với thực tế, không tương thích với những yêu cầu của kinh tế thị trường; sự chậm trễ, thiếu kịp thời trong ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trườnglà một trong những nguyên nhân và là nguyên nhân đầu tiên khiến cho hiệu lực QLNN về môi trường ở nước ta yếu kém.
2. Hệ thống chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường có nhiều bất cập.
- Khung xử phạt còn nặng về biện pháp phòng ngừa, răn đe, chưa coi trọng việc áp dụng các công cụ kinh tế, các biện pháp kinh tế phùhợpvới kinh tế thị trường.
Mặc dù việc sử dụng các công cụ kinh tế trong QLNN về môi trường đã được áp dụng phổ biến rộng rãi ở các nước trên thế giới, song ở Việt Nam mới chỉ áp dụng dưới dạng thuế, phí BVMT, kí quỹ, đặt cọc, còn các công cụ kinh tế khác thì mới chỉ đang trong giai đoạn thử nghiệm. Hai loại phí được sử dụng ở Việt Nam là phí nước thải (theo Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13-6-2003) và phí BVMT trong khai thác khoáng sản (theo Nghị định số 137/2005/NĐ-CP ngày 09-11-2005). Số địa phương đã thu được phí nước thải trên cả nước chưa nhiều. Nguyên nhân là do không có cơ sở khoa học để xác định mức phí. Còn thiếu nhiều văn bản pháp luật nhằm thể chế hoá việc áp dụng các công cụ kinh tế trong hoạt động BVMT, gắn BVMT với chính sách sử dụng tiết kiệm và hợp lý tài nguyên thiên nhiên, thiếu các quy định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường.
- Một số hành vi vi phạm pháp luật BVMT chưa được quy định chi tiết, cụ thể, rõ ràng, thậm chí có nhiều hành vi vi phạm còn chưa có chế tài xử phạt.Ví dụ: Điều 10, 11, 13 của Nghị định số 121/2004/NĐ-CP ngày 12-5-2004 hay Điều 15, 16 của Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 09-8-2006 đã đưa ra khung và mức phạt đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT nhưng còn chung chung, không chi tiết, cụ thể. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật BVMT trong một thời gian dài không có chế tài nào xử phạt. Ví dụ, trong Bộ Luật Hình sựsửa đổi, bổ sung năm 2009 vẫn chưa có các quy định về xử lý vi phạm pháp luật BVMT đối với pháp nhân.
- Xử phạt chưa kịp thời và mức độ xử phạt thấp.Thực tế có rất nhiều cơ sở sản xuất - kinh doanh vi phạm pháp luật BVMT nhưng chưa bị xử phạt, làm cho tình trạng vi phạm kéo dài. Chẳng hạn, tính đến năm 2006, vẫn còn 70% các khu công nghiệp không có hệ thống xử lý chất thải; 90% cơ sở sản xuất - kinh doanh dịch vụ không xử lý nước thải. Thế nhưng, chúng vẫn hoạt động mà không bị xử phạt. Năm 2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiến hành 89 cuộc thanh tra, phát hiện 798 đơn vị vi phạm pháp luật BVMT, nhưng chỉ có 200/798 đơn vị bị ra quyết định xử phạt (chiếm 25% số cơ sở). Như vậy, có tới 75% số cơ sở chưa phải chịu mức phạt nào, chỉ bị nhắc nhở và đôn đốc thực hiện. Qua báo cáo của 55 Sở Tài nguyên và Môi trường, năm 2009, đã phát hiện hơn 2.000 cơ sở vi phạm pháp luật BVMT nhưng chỉ có 1.850 cơ sở bị xử phạt, còn lại 181 cơ sở chỉ bị nhắc nhở.
Việc xử phạt không chỉ thiếu kịp thời, mà mức xử phạt còn quá nhẹ, quá thấp, không đủ sức răn đe. Qua các đợt thanh tra trên, số cơ sở vi phạm chỉ bị phạt với tổng số tiền chưa đến 3 tỉ đồng, bình quân mỗi đơn vị chỉ phải nộp 16,5 triệu đồng. Với mức phạt như vậy, các cơ sở coi như không có gì xảy ra, và ngay cả bị phạt 70 triệu đồng (mức phạt caonhất theoNghị định số 81/2006/NĐ-CP), thì doanh nghiệp thà chịu nộp phạt còn hơn phải bỏ tiền ra xây hệ thống xử lý chất thải. Thêm vào nữa, do thiếu nhân lực, nên thanh tra cũng chỉ thực hiện 2 năm một lần. Vì thế, 2 năm mới nộp phạt 70 triệu đang là số tiền quá ít so với việc họ phải xây dựng hệ thống xử lý nước thải.
Mức xử phạt áp dụng đối với các hành vi không nộp lệ phí rất thấp, không đủ để cưỡng chế các doanh nghiệp không chịu nộp phí. Chẳng hạn, phạt từ 500 nghìn đồng đến 1 triệu đồng đối với hành vi không nộp phí, lệ phí có mức phí dưới 10 triệu đồng; phạt từ 5-10 triệu đồng đối với hành vi không nộp phí, lệ phí có mức phí từ 50-100 triệu đồng. Với mức phạt như vậy thì các doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận nộp phạt thay vì nộp phí (vì nộp phạt thấp hơn nộp phí).
- Cách thu phí môi trường và quyền lợi của người nộp phí chưa có hướng dẫn cụ thể:
+ Về cách thu phí:Chưa thật sự khoa học vì chưa định lượng chính xác mức gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, trong tổ chức thu phí của các cơ quan chức năng còn lỏng lẻo đùn đẩy trách nhiệm.
+ Về quyền lợi của người trả phí:Các doanh nghiệp cho rằng, họ đã đóng phí môi trường nên họ không phải xử lý nước thải và trách nhiệm này thuộc về cơ quan thu phí. Trong khi cơ quan thu phí môi trường lại cho rằng: phí đó quá thấp, chỉ là phí quản lý chứ không đủ đầu tư cho việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải. Sự thiếu nhất quán trong cách hiểu này cho đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nào. Vì thế, làm cho hiệu lực triển khai các chính sách BVMT bị giảm đáng kể.
3. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường còn nhiều yếu kém.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy chưa tương xứng với nhiệm vụ.Cho đến nay, mới có 61/63 tỉnh, thành phố thành lập Chi cục BVMT thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường và 617/688 huyện thành lập được Phòng Tài nguyên và Môi trường và ở nhiều nơi công tác QLNN về môi trường chưa được triển khai. Còn ở cấp xã, nhiệm vụ QLNN về môi trường gần như bị bỏ trống. Công tác BVMT ở các làng, xã thường được giao cho một cán bộ văn hoá xã kiêm nhiệm, với chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là đôn đốc, theo dõi công tác vệ sinh ở thôn xóm, khu dân cư. Vấn đề môi trường có tính chất liên ngành, liên vùng chưa có cơ chế kết hợp. Ở nhiều khu công nghiệp, làng nghề, không có bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách về môi trường. Hệ thống chuyên trách về môi trường từ cấp huyện đến cấp xã gần như chưa có.
- Chức năng, thẩm quyền của các bộ phận trong hệ thống tổ chức bộ máy QLNNvề môi trường chưa rõ ràng, còn chồng chéo, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng làm cho hiệu lực QLNN về môi trường càng thêm yếu. Thực tế những năm qua cho thấy, có sự chồng chéo về chức năng, thẩm quyền giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với các bộ, ban, ngành khác. Điều này thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực thanh tra và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Việc phân cấp quản lý không rõ ràng còn dẫn đến tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý. Việc phối hợp hoạt động giữa các cơ quan QLNN về môi trường với các cấp chính quyền, các ban, ngành và tổ chức xã hội ở nhiều địa phương còn lỏng lẻo, cơ chế phối hợp không rõ ràng.
- Đội ngũ cán bộ QLNN về môi trường thiếu về số lượng, kém về chuyên môn nghiệp vụ, không đảm đương và hoàn thành nhiệm vụ theo chức năng và thẩm quyền được giao.
+ Về số lượng,năm 2010, có khoảng 6.000 người ở cả cấp trung ương và địa phương. Tính chung trên phạm vi cả nước đạt tỉ lệ 70 cán bộ/1triệu dân. Trong khi đó, ở một số quốc gia tỉ lệ này rất cao như: Ma-lai-xi-a 100 người, Ca-na-đa 155 người, Anh 204 người. Sự thiếu hụt lực lượng cán bộ QLNN về môi trường đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả QLNN về môi trường ở nước ta.
+ Về chuyên môn, nghiệp vụ,qua khảo sát đội ngũ cán bộ quản lý môi trường trong cả nước cho thấy, đa phần họ được đào tạo liên quan đến môi trường, nhưng lại ít được đào tạo về quản lý môi trường. Chỉ có 59% số người được đào tạo cả hai lĩnh vực trên. Số cán bộ được tham gia tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về tài nguyên, môi trường chưa nhiều.
+ Về cơ cấu,số cán bộ được đào tạo về kĩ thuật nhiều hơn số cán bộ được đào tạo về nghiệp vụ quản lý môi trường. Số cán bộ có chuyên ngành đào tạo phù hợp với vị trí công tác không nhiều. Tỉ lệ cán bộ trẻ thấp, đội ngũ cán bộ chuyên gia, cán bộ giỏi được đào tạo cơ bản đã nghỉ hưu, trong khi đó đội ngũ cán bộ kế cận và thay thế chưa được chuẩn bị.
+ Về điều kiện sống và làm việc,qua kết quả khảo sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, có 88,9% số cán bộ quản lý môi trường cho rằng thu nhập của họ thấp, còn nhiều bất hợp lý; 25,9% số cán bộ cho rằng chế độ, chính sách dành cho họ chưa thoả đáng, chưa được quan tâm đúng mức; chính sách khen thưởng ít, không có tác dụng động viên; điều kiện làm việc của họ rất khó khăn, trang thiết bị kĩ thuật và phương tiện phục vụ cho công tác điều tra, nghiên cứu, quan trắc, xử lý thông tin, đánh giá thực trạng môi trường lạc hậu, thiếu thốn. Vì thế, họ không có đủ căn cứ để xác định các hành vi vi phạm môi trường, không xác định được mức phí mà doanh nghiệp vi phạm phải nộp, không kiểm tra được tính chính xác của các bản báo cáo của các doanh nghiệp. Điều đó cũng làm cho hiệu lực QLNN về môi trường không được thực hiện.
4. Bảo vệ môi trường chưa trở thành ý thức trách nhiệm của nhiều người.
Ở nước ta, nhận thức về BVMT của cộng đồng, doanh nghiệp, thậm chí của cả đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý còn rất mơ hồ và chưa đầy đủ. Vấn đề BVMT dường như chỉ tồn tại trên giấy tờ, chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Các cấp lãnh đạo chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề môi trường và BVMT. Những bất cập, hạn chế của hệ thống chính sách pháp luật và hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về môi trường đã trình bày, phân tích ở trên là bằng chứng chứng minh cho sự quan tâm chưa đầy đủ này. Rõ ràng vấn đề môi trường, BVMT chủ yếu mới chỉ dừng ở chủ trương, chính sách, định hướng mà chưa tạo ra sự quan tâm đích thực từ phía các nhà hoạch định chính sách.
Các doanh nghiệp né tránh vấn đề môi trường và BVMT. Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp trong nước vẫn cho rằng BVMT là công việc của Nhà nước và không ít doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lợi dụng sơ hở, yếu kém của pháp luật Việt Nam để trốn tránh trách nhiệm BVMT. Chính sự thiếu hợp tác từ phía doanh nghiệp là một trong những nguyên nhân chính làm giảm hiệu lực, hiệu quả QLNN về môi trường.
Người dân chưa thi hành tốt pháp luật về BVMT và cũng chưa làm tốt trách nhiệm giám sát việc thực thi các quyết định QLNN về môi trường, điều đó thể hiện qua các khía cạnh sau:
- Nhận thức sai lệch của người dân về vấn đề môi trường.Qua khảo sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường, có tới 33,9% số người được hỏi cho rằng tài nguyên nước của Việt Nam là vô tận; 36,9% cho rằng tài nguyên rừng của Việt Nam là vô tận; 27,5% cho rằng chỉ nước mặt mới bị ô nhiễm còn nước ngầm thì không; 29,2% cho rằng môi trường ở thành phố ô nhiễm còn ở nông thôn thì không. Có thể thấy nhận thức sai lệch trên là một trong những nguyên nhân khiến cho con người có những hành vi không thân thiện với môi trường, vi phạm pháp luật BVMT.
- Hiểu biết của người dân về pháp luật, chính sách BVMT hạn chế.Mặc dù chưa có cuộc điều tra nào để đánh giá vấn đề này, nhưng chắc chắn nhiều quy định về BVMT người dân không biết và cán bộ cũng không biết. Điều này tạo ra một khoảng cách xa giữa việc ban hành luật và thực thi luật, hình thành nên tâm thế coi thường luật ở người dân, mà việc xoá bỏ tâm thế này không phải là công việc dễ dàng, nhất là trong bối cảnh trình độ dân là thấp, đời sống thiếu thốn thì công việc này càng khó khăn thêm gấp bội.
- Nhiều người thờ ơ trước những hành vi vi phạm pháp luật BVMT.Theo khảo sát ở phạm vi hẹp tại Hà Nội về thái độ của người dân đối với hành vi thải rác không đúng nơi quy định của người khác, kết quả là chỉ có 12,2% số người dân tỏ thái độ nhắc nhở, có tới 55,1% không tỏ thái độ gì và 11,2% không chú ý gì đến hành vi vi phạm đó. Họ cho rằng, đây là trách nhiệm của các cơ quan QLNN về môi trường chứ không phải của họ.
- Cộng đồng tham gia vào hoạt động BVMT một cách bị động.Qua khảo sát thực tiễn cho thấy, nhiều cơ quan QLNN về môi trường chưa thật sự mạnh dạn trao quyền cho cộng đồng. Kiểu quản lý này làm cho sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động BVMT trở nên bị động, họ chủ yếu chỉ là lực lượng thực hiện các quyết định quản lý được đưa từ trên xuống. Điều này dẫn đến chỗ các quyết định quản lý không sát thực tiễn cuộc sống, còn người dân trở nên thờ ơ và thiếu trách nhiệm giám sát việc thực thi pháp luật BVMT.
5. Một số nguyên nhân khác.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường và BVMT làm chưa tốt.Việc vận động nhân dân tích cực tham gia BVMT, vận động họ tự nguyện thay đổi những thói quen lạc hậu và hình thành những thói quen, nếp sống mới thân thiện với môi trường chưa được quan tâm đầy đủ. Một số cấp uỷ, chính quyền chưa nhận thức đúng mức, đầy đủ tầm quan trọng của công tác BVMT, chậm ban hành các văn bản hướng dẫn và chỉ đạo công tác BVMT. Tư tưởng nặng về kinh tế, coi nhẹ vấn đề BVMT vẫn còn phổ biến. Công tác giáo dục về BVMT trong thời gian qua chưa làm cho học sinh và cả sinh viên hiểu biết đầy đủ sâu sắc về chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVMT. Các hoạt động BVMT do nhà trường tiến hành còn nặng về phong trào, hình thức, không duy trì thường xuyên, nâng lên thành ý thức BVMT. Tất cả những điều đó làm cho hiệu lực và hiệu quả QLNN về môi trường thấp kém, không đạt được các mục tiêu đề ra.
- Đầu tư cho BVMT còn rất thấp.Những năm qua, trong danh mục chi ngân sách nhà nước vẫn chưa có mục chi riêng cho BVMT mà vẫn ghi chung vào mục chi sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường với mức chi rất thấp: năm 2005 tỉ lệ này là 0,98%; năm 2006: 0,82%; năm 2007: 1,9% và năm 2008 là 1,57%.
Việc sử dụng nguồn kinh phí này rất dàn trải, kém hiệu quả, thậm chí sai mục đích. Việc phân bổ, thực hiện nguồn chi này ở nhiều địa phương chưa có sự tham gia của cơ quan chuyên môn là Sở Tài nguyên và Môi trường và chưa có sự giám sát của HĐND các cấp. Cơ chế sử dụng các nguồn thu từ thuế, phí BVMT, tiền phạt, viện trợ ODA cho BVMT chưa rõ ràng, thiếu sự điều hoà, phối hợp. Việc kí quỹ BVMT thực hiện chưa nghiêm, thiếu đồng bộ. Cho đến nay, vẫn chưa hình thành được ngành kinh tế môi trường.
- Hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực môi trường chưa được quan tâm đúng mứcdo thiếu vốn đầu tư, thiếu phương tiện, thiết bị nghiên cứu. Nhà nước cũng chưa có cơ chế khuyến khích nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này. Vì thế, các sản phẩm khoa học - công nghệ để BVMT chưa nhiều. Đơn cử, để xử lý ô nhiễm môi trường triệt để (theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22-4-2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc duyệt Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng), nhiều doanh nghiệp đã không tìm được công nghệ xử lý phù hợp. Điều đó khiến cho khả năng thực thi các quy định của Nhà nước về BVMT thấp.








