Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 19/12/2006 00:00 (GMT+7)

Về tôn giáo và tính hiện đại ở Việt Nam

Tháng 6 năm 2005, Viện nghiên cứu văn hoá thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam mời tôi sang nói chuyện bốn buổi về “Tôn giáo và tính hiện đại”. Đây là thời điểm rất thú vị khi được mời để nói chuyện về chủ đề này vì các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam đã gia tăng một cách đáng kể trong hai thập niên vừa qua.

Các nhà khoa học và quan chức Việt Nam nhìn nhận sự gia tăng đột ngột của hoạt động tín ngưỡng tôn giáo như là một vấn đề đang nảy sinh rất quan trọng. Theo hệ tư tưởng Marxist, hệ tư tưởng đóng vai trò quan trọng trong đường lối của các nhà lãnh đạo chính phủ Việt Nam từ năm 1945 (ở miền Bắc) và từ năm 1975 (ở miền Nam), khi nền kinh tế của một xã hội phát triển hơn thì các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng sẽ giảm đi một cách đáng kể. Tuy nhiên, ngược lại với dự đoán này, từ giữa những năm 1980 khi nền kinh tế của Việt Nam phát triển như là kết quả của của chính sách đổi mới của chính phủ thì các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam cũng gia tăng đáng kể trên toàn bộ lãnh thổ của đất nước.

Các giáo sư và các nhà nghiên cứu của Viện nghiên cứu văn hoá là những người đi tiên phong trong việc nghiên cứu về hầu bóng (hình thức hoạt động phổ biến ở miền Bắc) và tục thờ các nữ thần bản địa (phổ biến ở phía Nam). Một vài học giả trong số này nhận ra rằng cách tiếp cận Marxits đối với tôn giáo không đủ để hiểu về sự phục hồi của những thực hành đó. Các học giả này cũng như nhiều học giả khác nữa đã bắt đầu tìm đến cách tiếp cận của các nhà khoa học phương Tây nhằm mở rộng cách tiếp cận về mặt lý thuyết để hiểu rõ hơn về sự thay đổi tôn giáo ở trong nước mình.

Tôi quen biết khá nhiều giáo sư và cán vộ nghiên cứu của Viện đã nhiều năm nay, trong đó có hai cán bộ nghiên cứu trẻ của Viện đang viết luận án tiến sỹ dưới sự hướng dẫn của tôi tại khoa nhân học, trường đại học Washinhton. Một vài nhà nghiên cứu trẻ khác cũng đang theo học tại các nước phương Tây. Trong số 45 - 60 người đến nghe các buổi nói chuyện của tôi cũng có nhiều người đang theo học các trương trình thạc sỹ và tiến sỹ cùng với một số người đến từ các viện nghiên cứu khác.

Trong bài nói chuyện đầu tiên, tôi trình bày vấn đề lý thuyết chung về “Tôn giáo và tính hiện đại”. Tôi bắt đầu bằng việc thảo luận rằng ngược lại với những dự đoán của các bậc tiền bối trong nghiên cứu tôn giáo và xã hội cuối thế kỷ 19, các thực hành tôn giáo tín ngưỡng không chỉ tồn tại dai dẳng trong thế giới hiện đại mà chúng còn tăng một cách đột biến trên toàn thế giới vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21.

“Sự kiện xã hội” lạ thường này (mượn thuật ngữ của Durkhiem) đã khiến cho học giả ở các nước ngoài hệ thống xã hội cộng sản, trên bình diện lý thuyết, phải xem xét lại mối quan hệ giữa tôn giáo và tính hiện đại. Trong bài nói chuyện, tôi cho rằng một lý thuyết phù hợp về tôn giáo và tính hiện đại nên bắt đầu từ việc quan tâm đến các trải nghiệm của con người, những trải nghiệm khiến cho con người đến với tôn giáo, hơn là bằng việc bắt đầu với tính chân lý của các niềm tin mà các thể chế hay quyền lực tôn giáo đưa ra. Đồng ý với Weber, tôi lập luận rằng để hiểu tại sao con người đi theo tôn giáo, chúng ta phải hiểu những vấn đề cơ bản của ý nghĩa, vấn đề mà con người phải đối mặt ngay cả trong những xã hội được hưởng lợi nhiều nhất từ các phát minh khoa học.

Trong các bài nói chuyện tiếp theo, tôi bàn về vấn đề những người dân sống trong các xã hội Phật giáo đã đương đầu với những vấn đề liên quan đến sự đau khổ và cái chết và các vấn đề đau khổ của sự bất bình đẳng do xung đột và bạo lực xã hội đem lại như thế nào. Những bài này tôi dựa chủ yếu vào nghiên cứu lâu năm của tôi ở Thái Lan cũng như kinh nghiệm và kiến thức có được về các nước theo Phật giáo Theravada (Thượng toạ bộ) ở Lào, Campuchia, Mianma và Sri Lanka .

Các bài nói chuyện của tôi đã gợi ra nhiều câu hỏi thú vị. Mô tả dân tộc học của tôi về những nghi lễ của Phật giáo Theravada đã dẫn đến nhiều câu hỏi về sự khác nhau giữa Phật giáo Đại thừa ở Việt Nam và Phật giáo Theravada. Rõ ràng là rất ít các nhà nghiên cứu của Viện Văn hoá hiểu rằng Phật giáo Theravada có một vị trí nổi bật hơn trong các xã hội mà nó thống trị so với Phật giáo Đại thừa có ở Việt Nam . (Tuy nhiên, sau đó tôi biết được từ cuộc trò chuyện với một nhà sư có tên tuổi ở Việt Nam tham dự buổi nói chuyện của tôi rằng Phật giáo đã có một ảnh hưởng rất quan trọng ngay cả ở miền bắc Việt Nam trong hai thập kỷ qua). Một nghiên cứu sinh là người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đang theo học ở Viện có hỏi tôi rằng tại sao lại có ít dân tộc thiểu số theo đạo Phật trong khi có nhiều dân tộc cải sang Kitô giáo. Tôi có nói rằng trong các nước theo Phật giáo Theravada có rất nhiều nhà sư đi truyền đạo đến các vùng dân tộc thiểu số trong khi ở Việt Nam thì hầu như không có hiện tượng này. Và tôi cũng lưu ý rằng tất cả những nhà truyền giáo Tin Lành đều dùng sách và các đoạn kinh được viết bằng tiếng bản địa trong khi không có một kinh sách Phật giáo nào được viết bằng ngôn ngữ này.

Có lẽ câu hỏi quan trọng nhất trong buổi nói chuyện là do một nhà nghiên cứu lâu năm về tục thờ nữ thần đưa ra. Ông muốn hỏi ý kiến của tôi về việc liệu chúng ta nên coi tục thờ nữ thần là “tôn giáo” hay là “mê tín”. Sự phân biệt này đã được công nhận phổ biến ở Việt Nam (cũng như ở các nước theo chế độ cộng sản khác) với mục đích nhằm xem xét những thực hành nào nên cho phép hoạt động và những thực hành nào cần phải loaị bỏ. Đã từng đọc nhiều công trình nghiên cứu của học giả này nên tôi dễ dàng nhận ra rằng ông hỏi không phải để có được một sự khẳng định đối với quan điểm của truyền thống Marxist nêu trên mà muốn biết làm thế nào để hiểu được, về mặt lý thuyết, các thực hành nghi lễ không có quan hệ với bất kỳ một tôn giáo có tổ chức nào. Ở Việt Nam cũng như ở các nước Đông Á và các nước theo Phật giáo Theravada, hàng năm có hàng trăm nghìn người đi đến những ngôi đền như đền thờ các nữ thần bản địa ở Việt Nam hay tìm đến các ông bà đồng để tìm kiếm sự trợ giúp cho các vấn đề mà họ gặp phải hàng ngày như sự không may của vợ, chồng hay người yêu, vấn đề hiếm muộn, những rủi ro gặp phải trong kinh doanh hay bệnh tật mà y học phương Tây không chữa trị được.

Tôi đã đưa ra câu trả lời dựa vào những cái tôi học được từ những người theo Phật giáo Theravada chứ không phải từ lý thuyết khoa học xã hội. Những người theo Phật giáo Theravada coi sasana– ‘tôn giáo’ – bao gồm nững hoạt động mà Đức Phật cho là liên quan đến dukkha, cái khổ tồn tại trong cuộc sống con người. Theo Phật giáo Theravada, bất kỳ hoạt động nào mà một người tìm đến để nhằm cải thiện vị trí xã hội hay thể xác ở trên thế giới này, cho dù hoạt động đó liên quan đến bác sỹ tây y, quan chức nhà nước hay thờ cúng một vị thần hoặc ông bà đồng, đều không phải là hoạt dộng tôn giáo vì nó không góp phần giúp con người vượt qua dukkha. Tóm lại, dựa theo những gì mà tôi học được từ nhãn quan Phật giáo, tôi tin rằng cần phải có một sự phân biệt rạch ròi, cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tế, giữa các thực hành “tôn giáo” và các thực hành tập trung xung quanh các quyền lực “siêu nhiên”. Tôi cũng lưu ý rằng trong khi các tôn giáo gắn với tên tuổi của Abrahm như Do Thái, Kitô giáo, Hồi giáo và cả chủ nghĩa Mác nữa đã tìm cách ngăn chặn thực hành này và coi chúng như là những thực hành đối nghịch với tôn giáo, thì những thực hành đó vẫn đang gia tăng một cách đáng kể trong những xã hội hiện đại sau này. Thực sự là, như Malinowski (và cả Lévi – Strauss nữa) đã lập luận từ rất lâu, “ma thuật” là một khía cạnh rất cơ bản của tư duy con người, và nó được tìm thấy trong cả xã hội hiện đại lẫn tiền hiện đại.

Tôi nhận ra từ kinh nghiệm của tôi ở Việt Nam là so sánh tôn giáo bao gồm không chỉ những nghiên cứu so sánh các thực hành tôn giáo ở những truyền thống tôn giáo khác nhau. Nó phải bao gồm cả việc so sánh những cách tiếp cận đối với nghiên cứu tôn giáo của các học giả theo các truyền thống học thuật khác nhau.

Nguồn : Xưa & nay, số 259, tháng 5-2006, trang 20-21-22

Xem Thêm

Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Quảng Ngãi: Tổ chức Hội nghị tuyên truyền cho trí thức
Chiều 9/5, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức và Hội viên của Câu lạc bộ Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề “Tình hình Biển Đông gần đây và chính sách của Việt Nam”.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Phát động Chiến dịch phục hồi rừng “Rừng xanh lên 2025” tại Sơn La
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5 và Ngày Môi trường Thế giới 05/06, ngày 25/5, Liên Hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã phối hợp cùng Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hạt Kiểm lâm Vân Hồ, Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển cộng đồng (RIC) và chính quyền địa phương phát động trồng hơn 18.000 cây bản địa tại hai xã Song Khủa và Suối Bàng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.
VinFuture 2025 nhận 1.705 đề cử toàn cầu – tăng 12 lần số đối tác đề cử sau 5 mùa giải
Giải thưởng Khoa học Công nghệ toàn cầu VinFuture đã chính thức khép lại vòng đề cử cho mùa giải thứ 5 với 1.705 hồ sơ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, số lượng đối tác đề cử chính thức của Giải thưởng đã tăng trưởng vượt bậc, đạt 14.772 đối tác.
Hỗ trợ thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững
Dự án Hỗ trợ phục hồi rừng tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình do Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên Việt là Chủ dự án với mục tiêu hỗ trợ việc thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững cho cộng đồng.
Vĩnh Long: Tập huấn nâng cao nhận thức về ứng phó khí hậu gắn với kinh tế xanh
Sáng ngày 23/05, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) phối hợp với Chi cục Môi trường và Kiểm lâm – Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh, Đảng ủy, UBND xã Thuận Thới, Hợp tác Xã Thuận Thới tổ chức Hội nghị “Tập huấn tuyên truyền nâng cao nhận thức về công tác, ứng phó khí hậu gắn với kinh tế xanh”.
Liên hiệp hội Hà Tĩnh: 30 năm một chặng đường phát triển
Kể từ khi mới thành lập đến nay, hệ thống tổ chức của Liên hiệp hội tỉnh Hà Tĩnh không ngừng được bổ sung, kiện toàn và phát triển. Bên cạnh việc xây dựng và phát triển tổ chức, Liên hiệp hội đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ, khắc phục thách thức, nắm bắt cơ hội để tạo động lực vươn lên.
Đoàn đại biểu VUSTA viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chiều ngày 24/5/2025, đoàn đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam do TSKH. Phan Xuân Dũng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam làm trưởng đoàn đã tới kính viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Thanh Hoá: Tập huấn Bình dân học vụ số cho cán bộ, hội viên
Ngày 22/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn về Công nghệ số ứng dụng trong sản xuất và đời sống (Bình dân học vụ số) cho gần 200 cán bộ, hội viên của các hội thành viên, trung tâm trực thuộc, đơn vị liên kết trong hệ thống Liên hiệp hội.