Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 17/04/2006 14:08 (GMT+7)

Về một khuynh hướng thực học ở Việt Nam thế kỷ XVIII Trường hợp Lê Quý Đôn

Nho học thực sự có tác động vào Việt Nam là vào các thời đại Lý - Trần (thế kỷ XI - XIV) và đặc biệt sâu sắc là vào các thời đại Lê - Nguyễn (thế kỷ XV - XIX). Người Việt Nam tiếp nhận Nho học trong các thời đại trên là sự chọn lọc tự nguyện xuất phát từ nhu cầu xã hội. Một vị vua là Hồ Quý Ly

(1335 - ?) đã từng viết trong bài thơ “Đáp Bắc nhân vấn An Nam phong tục” như sau: “Dục vấn An Nam sự - An Nam phong tục thuần - Y quán - Đường chế độ - Lễ nhạc, Hán quân thần”. Nhà văn hoá lớn Nguyễn Trãi (1380 - 1442) cũng viết: “Người có Bắc - Nam nhưng đạo không kia khác”, “Lòng hãy cho bền đạo Khổng Nhan”…

Ở Việt Nam , Nho học được gọi là Nho giáo. Trên đất nước này, học thuyết Khổng, Mạnh, Trình, Chuđồng thời cũng là giáo điều của Nho giáo. Nho giáo phát triển qua qua khoa cử hương thí và hội thí. Tầng lớp sĩ đông đảo ở nông thôn tạo thành “Hội tư văn” trong làng xã, phổ biến trong các thế kỷ XVIII - XIX. Ở Thăng Long có Quốc Tử Giám, Văn Miếu và bia Tiến sĩ. Khi Huế trở thành kinh đô cho cả nước thì cũng có Quốc Tử Giám và cũng có văn bia Tiến sĩ.

Tư tưởng Nho học - Nho giáo Việt Nam trong thưòi kỳ Lê Nguyễn chủ yếu là Trình Chu. Các nhà Nho bình thường cho đến đầu thế kỷ XX vẫn thường nói câu “Cửa Khổng - Sân Trình”, “Trình Chu học hiệu”. Họ không chý ý nhiều đến Tâm học Lục Vương (khác với Trung Quốc và Nhật Bản).

Nhà sử học Ngô Sĩ Liên (? - 1497) biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư,15 quyển có 174 lời bình trong đó có 98 đoạn đều nhắc hoặc trích dẫn các tác giả - tác phẩm Chu Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Xuân Thu, Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung, Chu Tử…Sau đây là lời bình luận về Chu tử của Ngô Sĩ Liên: “Chu tử sinh vào cuối đời Tống, kế tiếp công việc chú giải lục kinh của các nhà Nho Hán Đường, ngược dòng tìm nguồn, hiểu được ý của thành nhân ở các bộ Kinh để lại, rõ được đạo thánh nhân ở nhãng lời huấn giải, vắt óc nghiền ngẫm, lý và tâm dung hợp, ông giải thích thì tường tận, chỉ dẫn thì xa rộng, thực là tập đại thành của các tiêu nho và cũng là khuôn mẫu cho kẻ hậu học. Huống chi lại có Trình Tử khởi xướng trước và Chu Tử bổ sung chỗ chưa hoàn hảo ở sau. Người sau mà có trước tác thì cũng chỉ mở mang cho rộng thêm, tô chuốt cho bóng thêm, có thế mà thôi”. Quan điểm của nhà sử học cũng là quan điểm chính thống và phổ biến cho đến cuối thế kỷ XIX.

Vào thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn (1726 - 1783) tiến sĩ cập đệ, đồng thời là đại thần tiêu biểu nhất cho trí tuệ Việt Nam thời trung đại vẫn đề cao Chu Hi. Trong bộ sách Thánh mô hiền Phạm lục,12 thiên, 4 tập (có đưa sang Bắc Kinh trong một dịp đi sứ để tham khảo ý kiến của nhiều vị sĩ phu Triều Tiên và Trung Quốc), Lê Quý Đôn đã trích nhiều lời của Trình Tử (Y Xuyên) và Chu Tử. Trong bộ sách Thư Kinh diễn nghĩa, ông có viết: “Tôi không dám nhận định theo một nhà chú giải nào nếu không tìm xét cho đúng ý nghĩa của sách, cũng không dám có lời bàn mới lạ để trái với lời bàn trước của Y Xuyên và Khảo Đình”. Thế mới biết Trình Chu có vị trí rất quan trọng trong tầng lớp sĩ phu Việt Nam .

Tuy nhiên ở Việt Nam, việc tiếp nhận Trình Chu cũng không phải đầy đủ với những lý luận phức tạp như các vấn đề về triết lý, thiên mệnh, thiên cực nặng về thuần lý triết học mà phần lớn các nhà Nho Việt Nam có ý thức tiếp nhận một cách thực dụng những bộ phận về đạo đức, luân lý để áp dụng vào công cuộc xây dựng gia đình, cộng đồng và tổ chức xã hội.

Vào cuối thế kỷ XVI về sau ở Việt Nam xuất hiện hiện tượng Tam giáo đồng tôn kéo dài trong nhiều thế kỷ - Nho giáo cùng đồng thời tồn tại với Phật và Đạo tuy nhiên Nho giáo vẫn mạnh hơn nhiều. Tiến sĩ cập đệ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) sĩ phu nổi tiếng cũng từng nói “Cửa Khổng làng Nhan đạo khó khăn” và chủ động dung hợp tam giáo. Vào các thế kỷ XVII - XVIII, xu hướng Tam giáo đồng tôn càng phổ biến trong tầng lớp nho sĩ, quan lại. Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm…đều có ý thức dung hợp tam giáo trên cơ sở Tống - Nho. Điều này thể hiện vị trí độc tôn của Nho giáo đã suy giảm nhiều.

Trong điều kiện trên, nhiều nho sĩ tìm đến Kinh học. Lê Quý Đôn có Thư Kinh diễn nghĩa, Dịch Kinh phu thuyết,Ttứ thư ước giải, Xuân Thu lược luận;Ngô Thì Nhậm có Xuân Thu quản kiến;Nguyễn Huy Oánh có Tính lý toản yếu, Tứ thư ngũ kinh toản yếu;Phạm Nguyễn Du có Chu Huấn toản yếu…

Các nhà kinh học trên không có nhièu ý kiến khác với Trình Chu. Họ chỉ làm công việc tuyển chọn theo cách giản đơn hóa, bản địa hóa, Việt hóa các kinh điển Nho giáo. Họ chỉ chọn lọc trong các Kinh điển Nho gia đồ sộ những thành tố cần thiết chủ yếu là trị đạo đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn quản lý xã hội chứ không phải là tiếp nhận toàn bộ phần “tư liệu” phong phú, phức tạp của các học thuyết Tống Nho chẳng hạn như Tính lý đại toànvốn có 70 quyển thì Nguyễn Huy Oánh tóm lược lại trong hai quyển (mà chủ yếu là Chu Hy) dùng để giảng dạy.

Trong số các nhà Kinh học trên, Lê Quý Đôn có nhiều biểu hiện theo khuynh hướng thực học. Lê Quy Đôn là đại thần đã qua nhiều công việc về kinh tế, giáo dục, quân sự, ngoại giao và từng cầm đầu sứ đoàn Việt Nam sang Bắc Kinh. Ông đọc rộng từ các Kinh truyện, Chutử và các bộ Bắc sử từ Tiên Tần đến Minh Thanh. Ông cũng đã đọc các trước tác của Cố Viêm Võ, Vương Phu Chi và các sách Tây học về thiên văn, địa lý (qua Hán văn). Trong các tác phẩm của ông đã có những tri thức về kinh tuyến, vĩ tuyến, xích đạo, các đại dương, đại lục, quảc đất tròn… Vào giữa thế kỷ XVIII ở Việt Nam có được những tri thức như ông là hiện tượng thật mới mẻ. Nhưng điều quan trọng hơn là ở chỗ ông trân trọng nó, không xem là “tà thuyết”, “dị đoan” mà thừa nhận công khai, viết vào sách vở cho mọi người đọc.

Lê Quý Đôn tôn sùng Trình - Chu nhưng trong ông, Trình - Chukhông phải là tối thượng. Ông chấp nhận việc dung hợp Nho với Phật, Đạo, đôi khi ông còn bênh vực Phạt và đạo, cho rằng lấy Phật Đạo tách khỏi tư tưởng con người chẳng khác nào lấy dao chém xuống nước. Trong tư tưởng ông cũng có điểm không giống Chu Hy. Chương “Lý khí ngữ” trong Vân đài loại ngữông tập trung bàn về phạm trù lý và khí và quan hệ giữa chúng. Ông viết “Lý không có hình tích nhờ khí mà thấy” (Lý vô hình tích nhân khí nhì kiến), “Lý ở ngay trong khí” (Lý tức tại khí chi trung). Những tư tưởng trên rất gần Cố Viêm Võ và Vương Phu Chi.

Lê Quý Đôn cũng bàn nhiều về tri và hành. Ông không nói “Tri tiên hành hậu” (Giống như Chu Hy) hạn chế sự mạnh dạn dám làm của con người. Ông cũng không nói “Tri hành hợp nhất” (giống như Vương Thủ Nhân) để rồi tri bao quát cả hành. Theo ông thì “đọc sách một thước không bằng làm một tấc” (dựa theo lời Y Xuyên). Ông cho rằng tri là sự hiểu biết rộng lớn bao gồm nhiều lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá mà hành là sự hoạt động trong các lĩnh vực trên nhằm để “tu, tề, trị, bình”. Có lẽ vì thế mà trước tác của ông bao gồm các lĩnh vực kinh học, sử học, ngôn ngữ học, địa lý học, nông học nhằm phục vụ cho việc chỉ đạo hoạt động của các cơ quan chính quyền và hiểu biết đất nước.

Mặc dầu vậy, khuynh hướng thực học của Lê Quý Đôn như trên cũng không phải là phi truyền thống đối với Tống Nho mà thực tế chỉ là sự mở rộng, bổ sung tri thức về phương diện học thuật cho chính mình. Những phạm trù Lý - Khí, Tri - Hành đều có trong triết học Tống Nho, ông chỉ làm cụ thể thêm bằng tri thức tiếp nhận được ở một số nhà thực học Trung Quốc và bằnh những hoạt động của bản thân trong hoạt động thực tiễn.

Một khuynh hướng thực học của nho sĩ Việt nam là Sinh thần vụ thực - Biểu hiệncủa nó trong lĩnh vực học thuật là tăng cường nghiên cứu quốc sử, địa lí và pháp luật. Thế kỷ XVIII quốc sử Việt Nam được biên soạn phong phú và đa dạng, phần nhiều các học giả Kinh học cũng là nhà sử học – Lê Quý Đôn viết Đại Việt thông sử, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục…; Ngô Thì Sĩ viết Đại việt sử ký tiền biên, Trần danh Lâm viết Nghệ An phong thổ thoại; Nguyễn Nghiêm viết Việt sử bị lãm…Trong khoảng nửa sau thế kỷ XVIII, gần chục bộ sử ra đời. Đây là những bộ tư sử của các đại quan Nho học. Phải chăng như Lê Quý Đôn viết làcác vị “muốn tìm trong lịch sử những kinh nghiệm trị nước”.

Một tư tưởng đặc sắc của Lê Quý Đôn trong pháp học là kết hợp pháp trị và đức trị. Theo cách nói của ông là kết hợp Vương đạo với Bá thuật. Trong Quần thư khảo biện Lê Qýu Đôn bàn về Bắc sử, đã ca ngợi Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, cả đến Tần Thuỷ Hoàng và Tào Tháo. Ông cho rằng trị nước “nhân” phải kết hợp với “thuật” và “thế”. Quan điểm pháp trị của Lê Quý Đôn thật là táo bạo, sát hợp với công việc quản lí xã hội của ông.(Tất nhiên bấy giờ không còn được nhiều người hưởng ứng).

Thực học ở Việt Nam còn thể hiện trong quan niệm sáng tác văn học. Về phương diện này có nhiều thành tựu tốt đẹp. Các nhà Kinh học, sử học lúc bấy giờ như Nguyễn Huy Oánh, Ngô Thì Sĩ…và đặc biệt là Lê quý Đôn có nhiều quan điểm sáng tác văn chương rất thực tế. Ông cho rằng “300 bài thơ trong Kinh thi phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra, và cũng có nhiều bài các nhà đời sau không theo kịp, như thế là vì nó chân thực”. Ông nói rõ: Muốn thơ văn hay thì nhà văn phải học nhiều, biết thực tế xã hội hiều và phải có tinh thần dân tộc. Ông lại nhấn mạnh “ Thánh nhân nhờ văn mà đạt tâm”. Văn và tâm là hai mặt của tác phẩm văn học. Quả thực khuynh hướng thực học trong triết học ở Việt Nam không cao thì trong sử học và triết học có tác động lớn, tích cực góp phần thúc đẩy nền văn hoá phát triển rực rỡ (Tôi xin phép bàn vấn đề này trong dịp khác).

Việt Nam là vùng biên của khu vực chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán, do đó những vận động của Nho học và Nho giáo ở trung Quốc truyền vào Việt Nam nhìn chung là chậm chạp hơn. Vào thế kỷ XVII – XVIII, thực học ở Trung Quốc đã thành trào lưu mạnh mẽ với Cố Viêm Vũ, Hoàng Tông Hy, Vương Phu Chi, Đối Trấn, Phương Sĩ Trí. Ở Việt Nam, học thuyết Trình Chuvẫn có vị trí chi phối trong các nhà Nho (cho đén cuối thế kỷ XIX). Tôi cho rằng Nho học ở trung Quốc có vận động nhiều chiều và kéo dài theo nhiều thế hệ thì ở Việt Nam , Nho học tiến triển theo chiều hướng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp vời tình hình đất nước. Hẳn vì vậy mà có người nước ngoài cho rằng hiện nay tính Nho giáo ở Việt Nam đậm hơn chút ít so với Trung Quốc. Điều này cần phải nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn. Theo tôi, trong một khía cạnh nào đó là như vậy nhưng quan trọng là ở chỗ tại Việt Nam vẫn bảo lưu nhiều yếu tố Nho giáo.

Nguồn: Xưa và Nay - Số 243.Tháng 9-2005

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.