Về một khuynh hướng thực học ở Việt Nam thế kỷ XVIII Trường hợp Lê Quý Đôn
Nho học thực sự có tác động vào Việt Nam là vào các thời đại Lý - Trần (thế kỷ XI - XIV) và đặc biệt sâu sắc là vào các thời đại Lê - Nguyễn (thế kỷ XV - XIX). Người Việt Nam tiếp nhận Nho học trong các thời đại trên là sự chọn lọc tự nguyện xuất phát từ nhu cầu xã hội. Một vị vua là Hồ Quý Ly
(1335 - ?) đã từng viết trong bài thơ “Đáp Bắc nhân vấn An Nam phong tục” như sau: “Dục vấn An Nam sự - An Nam phong tục thuần - Y quán - Đường chế độ - Lễ nhạc, Hán quân thần”. Nhà văn hoá lớn Nguyễn Trãi (1380 - 1442) cũng viết: “Người có Bắc - Nam nhưng đạo không kia khác”, “Lòng hãy cho bền đạo Khổng Nhan”…
Ở Việt Nam , Nho học được gọi là Nho giáo. Trên đất nước này, học thuyết Khổng, Mạnh, Trình, Chuđồng thời cũng là giáo điều của Nho giáo. Nho giáo phát triển qua qua khoa cử hương thí và hội thí. Tầng lớp sĩ đông đảo ở nông thôn tạo thành “Hội tư văn” trong làng xã, phổ biến trong các thế kỷ XVIII - XIX. Ở Thăng Long có Quốc Tử Giám, Văn Miếu và bia Tiến sĩ. Khi Huế trở thành kinh đô cho cả nước thì cũng có Quốc Tử Giám và cũng có văn bia Tiến sĩ.
Tư tưởng Nho học - Nho giáo Việt Nam trong thưòi kỳ Lê Nguyễn chủ yếu là Trình Chu. Các nhà Nho bình thường cho đến đầu thế kỷ XX vẫn thường nói câu “Cửa Khổng - Sân Trình”, “Trình Chu học hiệu”. Họ không chý ý nhiều đến Tâm học Lục Vương (khác với Trung Quốc và Nhật Bản).
Nhà sử học Ngô Sĩ Liên (? - 1497) biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư,15 quyển có 174 lời bình trong đó có 98 đoạn đều nhắc hoặc trích dẫn các tác giả - tác phẩm Chu Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Xuân Thu, Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung, Chu Tử…Sau đây là lời bình luận về Chu tử của Ngô Sĩ Liên: “Chu tử sinh vào cuối đời Tống, kế tiếp công việc chú giải lục kinh của các nhà Nho Hán Đường, ngược dòng tìm nguồn, hiểu được ý của thành nhân ở các bộ Kinh để lại, rõ được đạo thánh nhân ở nhãng lời huấn giải, vắt óc nghiền ngẫm, lý và tâm dung hợp, ông giải thích thì tường tận, chỉ dẫn thì xa rộng, thực là tập đại thành của các tiêu nho và cũng là khuôn mẫu cho kẻ hậu học. Huống chi lại có Trình Tử khởi xướng trước và Chu Tử bổ sung chỗ chưa hoàn hảo ở sau. Người sau mà có trước tác thì cũng chỉ mở mang cho rộng thêm, tô chuốt cho bóng thêm, có thế mà thôi”. Quan điểm của nhà sử học cũng là quan điểm chính thống và phổ biến cho đến cuối thế kỷ XIX.
Vào thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn (1726 - 1783) tiến sĩ cập đệ, đồng thời là đại thần tiêu biểu nhất cho trí tuệ Việt Nam thời trung đại vẫn đề cao Chu Hi. Trong bộ sách Thánh mô hiền Phạm lục,12 thiên, 4 tập (có đưa sang Bắc Kinh trong một dịp đi sứ để tham khảo ý kiến của nhiều vị sĩ phu Triều Tiên và Trung Quốc), Lê Quý Đôn đã trích nhiều lời của Trình Tử (Y Xuyên) và Chu Tử. Trong bộ sách Thư Kinh diễn nghĩa, ông có viết: “Tôi không dám nhận định theo một nhà chú giải nào nếu không tìm xét cho đúng ý nghĩa của sách, cũng không dám có lời bàn mới lạ để trái với lời bàn trước của Y Xuyên và Khảo Đình”. Thế mới biết Trình Chu có vị trí rất quan trọng trong tầng lớp sĩ phu Việt Nam .
Tuy nhiên ở Việt Nam, việc tiếp nhận Trình Chu cũng không phải đầy đủ với những lý luận phức tạp như các vấn đề về triết lý, thiên mệnh, thiên cực nặng về thuần lý triết học mà phần lớn các nhà Nho Việt Nam có ý thức tiếp nhận một cách thực dụng những bộ phận về đạo đức, luân lý để áp dụng vào công cuộc xây dựng gia đình, cộng đồng và tổ chức xã hội.
Vào cuối thế kỷ XVI về sau ở Việt Nam xuất hiện hiện tượng Tam giáo đồng tôn kéo dài trong nhiều thế kỷ - Nho giáo cùng đồng thời tồn tại với Phật và Đạo tuy nhiên Nho giáo vẫn mạnh hơn nhiều. Tiến sĩ cập đệ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) sĩ phu nổi tiếng cũng từng nói “Cửa Khổng làng Nhan đạo khó khăn” và chủ động dung hợp tam giáo. Vào các thế kỷ XVII - XVIII, xu hướng Tam giáo đồng tôn càng phổ biến trong tầng lớp nho sĩ, quan lại. Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm…đều có ý thức dung hợp tam giáo trên cơ sở Tống - Nho. Điều này thể hiện vị trí độc tôn của Nho giáo đã suy giảm nhiều.
Trong điều kiện trên, nhiều nho sĩ tìm đến Kinh học. Lê Quý Đôn có Thư Kinh diễn nghĩa, Dịch Kinh phu thuyết,Ttứ thư ước giải, Xuân Thu lược luận;Ngô Thì Nhậm có Xuân Thu quản kiến;Nguyễn Huy Oánh có Tính lý toản yếu, Tứ thư ngũ kinh toản yếu;Phạm Nguyễn Du có Chu Huấn toản yếu…
Các nhà kinh học trên không có nhièu ý kiến khác với Trình Chu. Họ chỉ làm công việc tuyển chọn theo cách giản đơn hóa, bản địa hóa, Việt hóa các kinh điển Nho giáo. Họ chỉ chọn lọc trong các Kinh điển Nho gia đồ sộ những thành tố cần thiết chủ yếu là trị đạo đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn quản lý xã hội chứ không phải là tiếp nhận toàn bộ phần “tư liệu” phong phú, phức tạp của các học thuyết Tống Nho chẳng hạn như Tính lý đại toànvốn có 70 quyển thì Nguyễn Huy Oánh tóm lược lại trong hai quyển (mà chủ yếu là Chu Hy) dùng để giảng dạy.
Trong số các nhà Kinh học trên, Lê Quý Đôn có nhiều biểu hiện theo khuynh hướng thực học. Lê Quy Đôn là đại thần đã qua nhiều công việc về kinh tế, giáo dục, quân sự, ngoại giao và từng cầm đầu sứ đoàn Việt Nam sang Bắc Kinh. Ông đọc rộng từ các Kinh truyện, Chutử và các bộ Bắc sử từ Tiên Tần đến Minh Thanh. Ông cũng đã đọc các trước tác của Cố Viêm Võ, Vương Phu Chi và các sách Tây học về thiên văn, địa lý (qua Hán văn). Trong các tác phẩm của ông đã có những tri thức về kinh tuyến, vĩ tuyến, xích đạo, các đại dương, đại lục, quảc đất tròn… Vào giữa thế kỷ XVIII ở Việt Nam có được những tri thức như ông là hiện tượng thật mới mẻ. Nhưng điều quan trọng hơn là ở chỗ ông trân trọng nó, không xem là “tà thuyết”, “dị đoan” mà thừa nhận công khai, viết vào sách vở cho mọi người đọc.
Lê Quý Đôn tôn sùng Trình - Chu nhưng trong ông, Trình - Chukhông phải là tối thượng. Ông chấp nhận việc dung hợp Nho với Phật, Đạo, đôi khi ông còn bênh vực Phạt và đạo, cho rằng lấy Phật Đạo tách khỏi tư tưởng con người chẳng khác nào lấy dao chém xuống nước. Trong tư tưởng ông cũng có điểm không giống Chu Hy. Chương “Lý khí ngữ” trong Vân đài loại ngữông tập trung bàn về phạm trù lý và khí và quan hệ giữa chúng. Ông viết “Lý không có hình tích nhờ khí mà thấy” (Lý vô hình tích nhân khí nhì kiến), “Lý ở ngay trong khí” (Lý tức tại khí chi trung). Những tư tưởng trên rất gần Cố Viêm Võ và Vương Phu Chi.
Lê Quý Đôn cũng bàn nhiều về tri và hành. Ông không nói “Tri tiên hành hậu” (Giống như Chu Hy) hạn chế sự mạnh dạn dám làm của con người. Ông cũng không nói “Tri hành hợp nhất” (giống như Vương Thủ Nhân) để rồi tri bao quát cả hành. Theo ông thì “đọc sách một thước không bằng làm một tấc” (dựa theo lời Y Xuyên). Ông cho rằng tri là sự hiểu biết rộng lớn bao gồm nhiều lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá mà hành là sự hoạt động trong các lĩnh vực trên nhằm để “tu, tề, trị, bình”. Có lẽ vì thế mà trước tác của ông bao gồm các lĩnh vực kinh học, sử học, ngôn ngữ học, địa lý học, nông học nhằm phục vụ cho việc chỉ đạo hoạt động của các cơ quan chính quyền và hiểu biết đất nước.
Mặc dầu vậy, khuynh hướng thực học của Lê Quý Đôn như trên cũng không phải là phi truyền thống đối với Tống Nho mà thực tế chỉ là sự mở rộng, bổ sung tri thức về phương diện học thuật cho chính mình. Những phạm trù Lý - Khí, Tri - Hành đều có trong triết học Tống Nho, ông chỉ làm cụ thể thêm bằng tri thức tiếp nhận được ở một số nhà thực học Trung Quốc và bằnh những hoạt động của bản thân trong hoạt động thực tiễn.
Một khuynh hướng thực học của nho sĩ Việt nam là Sinh thần vụ thực - Biểu hiệncủa nó trong lĩnh vực học thuật là tăng cường nghiên cứu quốc sử, địa lí và pháp luật. Thế kỷ XVIII quốc sử Việt Nam được biên soạn phong phú và đa dạng, phần nhiều các học giả Kinh học cũng là nhà sử học – Lê Quý Đôn viết Đại Việt thông sử, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục…; Ngô Thì Sĩ viết Đại việt sử ký tiền biên, Trần danh Lâm viết Nghệ An phong thổ thoại; Nguyễn Nghiêm viết Việt sử bị lãm…Trong khoảng nửa sau thế kỷ XVIII, gần chục bộ sử ra đời. Đây là những bộ tư sử của các đại quan Nho học. Phải chăng như Lê Quý Đôn viết làcác vị “muốn tìm trong lịch sử những kinh nghiệm trị nước”.
Một tư tưởng đặc sắc của Lê Quý Đôn trong pháp học là kết hợp pháp trị và đức trị. Theo cách nói của ông là kết hợp Vương đạo với Bá thuật. Trong Quần thư khảo biện Lê Qýu Đôn bàn về Bắc sử, đã ca ngợi Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, cả đến Tần Thuỷ Hoàng và Tào Tháo. Ông cho rằng trị nước “nhân” phải kết hợp với “thuật” và “thế”. Quan điểm pháp trị của Lê Quý Đôn thật là táo bạo, sát hợp với công việc quản lí xã hội của ông.(Tất nhiên bấy giờ không còn được nhiều người hưởng ứng).
Thực học ở Việt Nam còn thể hiện trong quan niệm sáng tác văn học. Về phương diện này có nhiều thành tựu tốt đẹp. Các nhà Kinh học, sử học lúc bấy giờ như Nguyễn Huy Oánh, Ngô Thì Sĩ…và đặc biệt là Lê quý Đôn có nhiều quan điểm sáng tác văn chương rất thực tế. Ông cho rằng “300 bài thơ trong Kinh thi phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra, và cũng có nhiều bài các nhà đời sau không theo kịp, như thế là vì nó chân thực”. Ông nói rõ: Muốn thơ văn hay thì nhà văn phải học nhiều, biết thực tế xã hội hiều và phải có tinh thần dân tộc. Ông lại nhấn mạnh “ Thánh nhân nhờ văn mà đạt tâm”. Văn và tâm là hai mặt của tác phẩm văn học. Quả thực khuynh hướng thực học trong triết học ở Việt Nam không cao thì trong sử học và triết học có tác động lớn, tích cực góp phần thúc đẩy nền văn hoá phát triển rực rỡ (Tôi xin phép bàn vấn đề này trong dịp khác).
Việt Nam là vùng biên của khu vực chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán, do đó những vận động của Nho học và Nho giáo ở trung Quốc truyền vào Việt Nam nhìn chung là chậm chạp hơn. Vào thế kỷ XVII – XVIII, thực học ở Trung Quốc đã thành trào lưu mạnh mẽ với Cố Viêm Vũ, Hoàng Tông Hy, Vương Phu Chi, Đối Trấn, Phương Sĩ Trí. Ở Việt Nam, học thuyết Trình Chuvẫn có vị trí chi phối trong các nhà Nho (cho đén cuối thế kỷ XIX). Tôi cho rằng Nho học ở trung Quốc có vận động nhiều chiều và kéo dài theo nhiều thế hệ thì ở Việt Nam , Nho học tiến triển theo chiều hướng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp vời tình hình đất nước. Hẳn vì vậy mà có người nước ngoài cho rằng hiện nay tính Nho giáo ở Việt Nam đậm hơn chút ít so với Trung Quốc. Điều này cần phải nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn. Theo tôi, trong một khía cạnh nào đó là như vậy nhưng quan trọng là ở chỗ tại Việt Nam vẫn bảo lưu nhiều yếu tố Nho giáo.
Nguồn: Xưa và Nay - Số 243.Tháng 9-2005








