Về chuyện làm lịch thời xưa dưới triều Nguyễn
Năm Gia Long thứ 8 (1810) có ban chiếu rằng: "Gia Định, Bắc Thành hàng năm ban lịch... đường sá xa xôi nên việc ban lịch chưa rộng. Từ nay, hàng năm thượng tuần tháng 4, quan của hai tỉnh ấy chọn phái 2 viên chiêm hậu ở thành đến kinh lĩnh bản thảo lịch sang năm ở Bộ Lễ, đem về theo mẫu khắc in ra... Lịch mới in xong, đưa trình Bộ Lễ; bàn giao KTG xem xét thực đúng; đóng sẵn ấn vàng rồi đem bản lịch đóng thành quyển để ban cấp cho các nơi"...
Qua những điều đã ghi trên, ta thấy rằng việc làm lịch để ban ra hàng năm dưới triều Nguyễn rất chặt chẽ, chu đáo và có bài bản. Nhà vua đã ban chiếu chỉ đạo cụ thể và phân công trách nhiệm tiến hành và kiểm tra. KTG lo liệu biên soạn, tu chỉnh chính xác mới được in ấn phổ biến ra khắp nơi cho mọi người dùng.
Thông thường mỗi năm khi làm xong bản thảo "Hiệp kỷ lịch, lịch công", thì tháng 5 theo lệ được khắc bản in lịch. Tháng 10 ấn Kim bảo và ấn KTG rồi đóng lịch thành quyển. Đến ngày mồng một tháng chạp làm lễ ban sóc (tức ban lịch tại điện Thái, Đại Nội - Huế). Quan KTG đem lịch dâng lên vua làm lễ ban hành chính thức. Quan thành Gia Định và Bắc thành, các quan ở các tỉnh mặc triều phục đến hành cung bái vọng làm lễ nhận lịch. Sau khi giao nhận xong, các quan có trọng trách đem về in ra theo lệ ban cấp phân chia như đã quy định.
Về mặt hình thức của lịch cũng rất trang trọng theo một qui cách do vua ban sắc ra. Như bìa lịch rộng 9 tấc 2 phân; cao 8 tấc, 7 phân dùng lụa Tầu. 8 tấm lụa sắc vàng đều có thêu hoa văn rồng mây. Tờ mặt trước quyển lịch thì có dùng tấm lụa sắc hoa đào dài 1 tấc, rộng 5 phân, thêu 2 chữ "NGỰ LỊCH" (bằng chữ Hán) (SD, tập 15.Q.259).
Về nội dung, nhà vua quan tâm rất tỉ mỉ đến các vấn đề trọng tâm của lịch và lựa chọn cách thức soạn lịch sao cho hay hơn, thích hợp hơn với thời đại. Chẳng hạn, năm Minh Mạng thứ 8 (năm 1827) đã chuẩn y lời tâu của Nguyễn Hữu Thận (Tham tri bộ Hộ): lấy sách "Đại Thanh lịch tượng Khảo thành", giao cho KTG sai thiên văn sinh học nghiên cứu tham khảo soạn thành lịch. Ngoài ra nhà vua còn chú ý đến cách ghi trên từng tờ lịch cốt sao để người xem dễ hiểu và tin cậy. Thí dụ: vua ghi "những ngày cấm hành hình, sát sinh đều có vòng một khuyên mực nhỏ đánh dấu để dân dễ hiểu... đến kỳ ban lịch, KTG phải ghi phụ chú để người dùng biết rõ...".
Nhìn chung, lịch Việt Nam ta cơ bản nội dung cũng giống như lịch Trung Quốc, nhưng đến thời Nhà Nguyễn, qua các triều đại đã có nhiều thay đổi, cải tiến cho phù hợp với thực tế trong nước. Chẳng hạn năm Minh Mạng thứ 18 vua làm bài yêu cầu sửa lại sự sai lầm về độ cao theo độ Bắc cực trên mặt đất tại Kinh tuyến và nói rõ Kinh tuyến Đông Tây như sau:
"Trước vì KTG nói theo phép cũ, về độ cao Bắc cực ở kinh chưa được chính xác. Trẫm bèn nhân khi rỗi xét nghiệm cải chính. Không ngờ dùng thước "đo trời" lại là đồ cũ, chưa từng điều chỉnh, còn có sai lầm. Cho nên trước nói rằng ở kinh Bắc cực độ cao trên mặt đất là 18 độ, 13 phân mà gần đây trắc nghiệm kỹ lưỡng thì chỉ có 16 độ, 22 phân, 30 diếu. Thế mới biết phép đo trước đã sai, lời nói trước của trẫm cũng sai... lúc đính chính chưa đúng, thực đáng xấu hổ? Nay cho KTG khi làm lịch, lấy độ cao Bắc cực trên mặt đất ở kinh là 16 độ, 22 phân, 30 diếu làm đích, còn đường Nam Bắc vĩ đã có đường xích đạo ở giữa thì độ số Nam Bắc về tiết Xuân phân, Thu phân, Đông chí, Hạ chí cũng đủ làm án nhất định..." (theo sách Đại Nam hội điển sự lệ, tập 15, trang 450).Đến đời Minh Mạng 20 thì có lịch mới khác chính xác hơn theo thực tế thiên văn đo đạc được tại nước ta. Về sau việc làm lịch hàng năm cũng được chỉnh lý dần cho thích hợp. Thí dụ năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) có dụ rằng: "KTG từ trước làm Hiệp kỷ lịch, nhân vì Kính nể khi gặp tên nhà vua đã đổi tiết sau tiết "tiểu mãn" 15 ngày là tiết "mang chủng" đổi thành tiết "mang hiện"... thế thì cắt nghĩa chữ "mang" nói không trôi được mà mất ý nghĩa của sách... Không thể không đính chính lại. Nghĩa chữ "mang" là một giống lúa, không phải ngôi sao mà dùng chữ "hiện". Nay đổi tên tiết ấy thành tiết "mang thực" (thuộc lương thực) ...". Đến năm Bính Ngọ (năm Thiệu Trị thứ 6), điều đó đã cải chính lại cho thiết thực hơn.
Mặt khác, trong nội dung sách lịch nhà vua đòi hỏi ban soạn lịch phải nghiên cứu, khảo sát và ghi chính xác các vấn đề diễn biến về thời tiết, thiên văn. Nhất là khi có các hiện tượng Nhật thực, Nguyệt thực trong năm thì phải ghi rõ ràng vào lịch và trước đó 3 tháng phải vẽ thành bản đồ trình tâu lên vua. Sau đó thông báo cho các địa phương đến ngày đó quan sát. Đặc biệt là về thời tiết, nhà vua rất quan tâm. Vì thời tiết có nhiều ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Nhà nông từ bao đời nay thường dựa vào các khí tiết trong năm để định liệu gieo trồng, cày cấy. Như chúng ta biết có 24 tiết khí hàng năm như: Đông chí (giữa đông), Tiểu hàn (chớm rét), Đại hàn (rét đậm), Lập xuân (đầu xuân), Vũ (ẩm ướt), Kinh trập (sâu bọ nở).v.v...
Vua Thiệu Trị cũng muốn cho nhiều người dân trong nước hiểu được tính chất, đặc điểm của các tiết đó một cách dễ dàng thoải mái, ông đã đặt thành 24 bài thơ lục bát, mỗi bài 4 câu cho dễ đọc, dễ nhớ thuộc lòng.
Như bài về tiết Kinh Trập (tức sâu bọ nở)
Sấm vang trời đất thuận
Hợp vào tiếng luật gọi là Lam trung.
Cỏ cây mầm mống nở tung
Các loài sâu bọ phá vùng bò ra
Bài về tiết Tiểu mãn (tức bắt đầu kết hạt)
Lúa chiêm muôn khoảnh mây vàng
Gặp thời đều được nở nang trưởng thành.
Bụi trần mưa dội sạch sanh
Trên sông Phổ tế gió lành thoảng qua.
Bài về tiết Mang Thực (Mang chủng, tức hạt lúa ra râu)
Tháng năm vừa tạnh mưa mơ
Lúa mang gieo hạt bấy giờ tốt ngay
Ngoài trời tán lửa quang mây,
Dần dần khí nóng hàng ngày sinh ra
(Các bài thơ này cũng được đưa vào phần phụ lục của “Hiệp Kỷ lịch”)
Nói chung, ngày xưa, Nhà nước rất coi trọng và cẩn thận về việc làm lịch và ban lịch hàng năm. Do đó, người dùng rất tin cậy vào những thông tin ghi trong lịch. Ngày nay, chúng ta làm lịch và lưu hành các loại lịch một cách đại trà. Không biết loại lịch nào thật, loại nào giả. Ngay cả những quyển lịch thật, in ấn cũng sai nhầm nhiều chỗ. Không biết do tác giả sai sót hay là do nhà xuất bản in nhầm. Chẳng ai chịu trách nhiệm nhận lỗi trước bạn đọc cả. Thế là người dùng lịch phải chịu cảnh "Tiền mất, tật mang". Vấn đề này báo chí đã lên tiếng nhiều lần nên tôi không cần phải nêu cụ thể lại nữa.
Hy vọng rằng việc biên soạn lịch và xuất bản các loại lịch hằng năm của nước ta được thận trọng, chính xác hơn để đem lại niềm tin cậy cho mọi người sử dụng được yên tâm.








