Văn tự Thái trên đường phát triển
Trước sau, một trong những nguyện vọng tha thiết của đồng bào dân tộc thiểu số này là được học và sử dụng văn tự của mìnhtrong sinh hoạt cộng đồng. Để đáp ứng yêu cầu thực tế này, từ những năm 1953-1969 Bác Hồ đã cùng Đảng và Nhà nước xây dựng cho đồng bào bộ chữ thống nhất - cải tiến rồi đưa vào trường để dạy và học. Ngày 27/1/1961thay mặt Hội đồng Chính phủ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Nghị định số 206/CP khuyến khích vùng người Thái sử dụng chữ Thái. Để tiện trong các trình bày ở bài viết này tôi gọi tắt bằng tên: chữ Thái thống nhất - cải tiến 1961.
Đảng CSVN trước sau như một vẫn nhất quán một đường lối chủ trương. Ngày 16/7/1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã ban hành. Trong quy định về nhiệm vụ cụ thể, Nghị quyết ghi rõ: “Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của tộc mình”.
Nhà nước đã có hiến pháp (1992) hiện hành, trong điều V ghi: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc mình”.
Thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân tộc Thái, thực hiện theo nghị quyết của Đảng và pháp luật Nhà nước, bắt đầu từ năm 2001, đến nay, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu Văn hoá thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội có Chương trình Thái học Việt Nam (CTTHVN) đã thực thi hai đề tài nghiên cứu khoa học về văn tự Thái và đã đạt kết quả khả quan.
Đề tài khoa học cơ bản cấp trường Đại học Quốc gia Hà Nội mã số CB.01.13 lấy tên: “Nghiên cứu hoàn thiện bộ chữ viết của dân tộc Thái ở ViệtNam”.
GS. Đoàn Thiện Thuật, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu Văn hoá làm Chủ nhiệm đề tài. CTTHVN thực thi từ đầu năm 2001 đến ngày 28/3/2002hội nghị nghiệm thu đánh giá xuất sắc đạt chất lượng ở mức cao nhất. Qua bản báo cáo chính của GS. Đoàn Thiện Thuật, ta biết được những thành tựu mà đề tài đã đạt được.
Thái là dân tộc thiểu số sớm có chữ viết theo hệ Sanskrit như bộ chữ Thái Đen dòng Tạo Xuông - Tạo Ngần ở đất Mường Lò (huyện Văn Trấn thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái) từ thế kỷ XI. Song do trước đây ít tiếp xúc giữa các vùng nên đến nay người Thái đã bảo tồn tới 8 bộ ký tự khác nhau.
Trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chắc chắn chữ Thái là phương tiện duy nhất để ghi chép các thông tin kinh tế, xã hội, văn hoá trong dân tộc Thái cũng như toàn vùng họ cư trú.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, chữ Thái tuy không được dạy ở trường sở nhưng lại dùng một cách rộng rãi trong sinh hoạt hàng ngày cũng như giấy tờ hành chính ở cấp châu mường (tương đương với huyện ngày nay).
Trước 1945, từ nhà tù Sơn La, các chiến sĩ cách mạng đã học và dùng tiếng, chữ Thái để tuyên truyền vận động quần chúng bên ngoài đứng dậy đánh đổ đế quốc phong kiến. Tại Sơn La, Hội Người Thái cứu quốcdưới sự lãnh đạo bí mật của Chi bộ Đảng Cộng sản trong tù đã xuất bản tờ báo chữ Thái mang tên Lắc mương(cột trụ đất nước) để kêu gọi nhân dân các dân tộc đứng lên diệt phát xít Nhật, giành chính quyền.
Trong thời kỳ kháng chiến chống xâm lược Pháp 1946-1954, chữ Thái cổ được tiếp tục dùng như một phương tiện vận động khối đại đoàn kết dân tộc, thành lực lượng đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Phía địch, năm 1949 tạm chiếm Lai Châu, Sơn La đã thay thế chữ Thái cổ bằng bộ chữ theo hệ La tinh, lấy chữ Pháp làm nền, dùng tiếng Thái Mường Lay làm chuẩn, vẫn giữ cấu trúc phụ âm đôi - tổ thấp, tổ cao như chữ Thái.
Năm 1953-1957 theo sáng kiến của Bác Hồ, Đảng và Nhà nước đã tổ chức để tập hợp các bộ chữ Thái cổ xây dựng thành Chữ Thái thống nhất. Năm 1958-1969 chữ Thái thống nhấtđược nghiên cứu khoa học hơn, hoàn chỉnh hơn và gọi là Chữ Thái cải tiến.
Chữ Thái thống nhất - cải tiến 1961, tuy đạt tiêu chí khoa học ngôn ngữ văn tự, nhưng vướng mắc nhiều ở khâu sử dụng, nhất là khi đưa vào hệ thống giáo dục quốc gia. Chính phủ đã chỉ thị tạm hoãn việc học Chữ Thái cải tiếnđể tiếp tục nghiên cứu sao cho thích hợp hơn. Từ đó đến nay đã 35 năm tạm hoãn, dân tộc Thái sống trong nỗi khao khát muốn được học và dùng chữ của mình như trước đây.
Từ thực trạng chữ Thái hiện nay, đề tài khoa học cơ bản của Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu kỹ để lập bản so sánh chỗ giống nhau, khác nhau của 8 bộ chữ Thái cổ với chữ Thái thống nhất - cải tiến 1961 và rút ra những nhận xét khoa học.
* Bộ chữ Thái thống nhất - cải tiến 1961 đã có đầy đủ, thậm chí thừa ký tự phụ âm, nguyên âm và dấu thanh để có thể ghi tất cả các tiếng địa phương các vùng thổ ngữ Thái.
* Thực thi đề tài khoa học cơ bản này, chúng tôi cũng đã thu thập được ý kiến của 7 tỉnh có người Thái cư trú. Rõ ràng bất cứ người Thái ở nơi nào cũng đều có chung một nguyện vọng muốn được học chữ Thái. Trước mắt có lẽ chưa có cách nào tốt hơn, được bắt đầu từ bộ chữ Thái thống nhất - cải tiến 1961 của vùng Tây Bắc cũ. Bởi vì suy cho cùng trên lĩnh vực phát triển văn hoá này, người Thái mới bước tới đó để rồi từ đó đi những bước tiếp theo. Nếu quay lại với nguyên dạng 8 bộ chữ Thái cổ là không thừa kế được những thành quả mới của nghiên cứu.
Ngày 26-4-2002tại Hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ III. Chủ nhiệm CTTHVN đã công bố kết quả nghiệm thu đề tài khoa học cơ bản cấp Đại học Quốc gia Hà Nội về nghiên cứu và hoàn thiện bộ chữ viết của dân tộc Thái ở Việt Nam và lấy tên là chữ Thái Việt Nam thống nhất (VNTN).
Sau hội nghị đó, tỉnh Lai Châu cũ (nay gồm cả Điện Biên), thị xã Nghĩa Lộ (Yên Bái) và huyện Mai Châu (Hoà Bình) đã đăng ký học chữ Thái. Riêng huyện Mai Châu BCH Đảng bộ đã có 3 nghị quyết của 3 nhiệm kỳ (20, 21, 22) và ngày 25/1/2003 HĐND huyện cũng đã ra nghị quyết tổ chức lớp học chữ Thái cho cán bộ và nhân dân. Nhận được tin có bộ chữ Thái VNTN, cấp uỷ và chính quyền địa phương cử ông Hà Anh Đức, Phó Chủ tịch huyện, người thông thạo chữ Thái cổ Mai Châu đến xin tài liệu dạy và học ở CTTHVN tại Hà Nội. Do có kinh nghiệm của 51 năm (1953-2004) xây dựng chữ Thái, Ban Chủ nhiệm CTTHVN đã soạn thảo 2 tập sách học vận và tập đọc củng cố kiến thức sau học vần, đáp ứng đòi hỏi cấp thiết của huyện Mai Châu.
Trung tâm Nghiên cứu và Giao lưu Văn hoá thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội vào thời điểm này do GS. Vũ Minh Giảng làm Giám đốc đã lập thành đề tài nghiên cứu khoa học.
Ứng dụng thực tiễn bộ chữ Thái ViệtNamthống nhất
Đề tài thực thi bằng việc hỗ trợ có hiệu quả, cấp uỷ và chính quyền huyện Mai Châu mở lớp dạy và học, coi đó như một thí điểm của đề tài ứng dụng thực tiễn bộ chữ Thái VNTN của Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ngày 2/5/2003 UBND huyện Mai Châu ra quyết định số 286/QĐ/UB thành lập ban chỉ đạo lớp học chữ Thái VNTN do ông Hà Anh Đức – P. Chủ tịch làm Trưởng ban, đồng thời làm giảng viên. Ông Vì Duy Thông, Uỷ viên thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Huyện uỷ được mời làm phó ban, cùng 4 uỷ viên khác. Lớp học thí điểm đã thu hút tới 94 học viên trong đối tượng cán bộ cốt cán của huyện và một số giáo viên các trường phổ thông ở xã. Ngày 1/6/2003lớp khai giảng và ngày 15/10/2003lớp làm lễ bế mạc vui mừng với kết quả tốt đẹp. Cán bộ và nhân dân huyện Mai Châu tưng bừng phấn khởi và tin tưởng. Qua lớp học thí điểm này đề tài khoa học ứng dụng thực tiễn của Đại học Quốc gia Hà Nội đã rút ra được những bài học sau:
Buổi đầu này dân tộc Thái chỉ cần sử dụng một bộ ký tự thống nhất để ghi thổ ngữ. Có lẽ còn lâu mới có thể chọn chữ chuẩn ghi một tiếng chuẩn như thời xây dựng bộ chữ Thái thống nhất - cải tiến 1961. Nhờ thực thi đúng nguyên tắc này mà đề tài khoa học ứng dụng thực tiễn đạt kết quả mỹ mãn ở huyện Mai Châu.
Biết chữ Thái cổ bất cứ ở bộ ký tự nào đều có thể chuyển sang đọc chữ VNTN thuận lợi và ngược lại. Điều này làm cho người biết chữ có thể thực hiện trong vòng một tiếng đồng hồ, thậm chí vài phút làm quen đối với những người học thực sự có kiến thức Thái học. Hoặc cùng lắm, với những người mới học thông thạo cũng chỉ có thể tìm hiểu, làm quen trong 5 – 7 ngày. Gặt hái được kết quả này từ lớp thí điểm thật lý thú. Một là, giúp những người biết chữ Thái cổ thoải mái khi học chữ Thái VNTN bằng cách tự tìm hiểu để nắm được. Hai là, vô hình trung người thông thạo chữ Thái cổ đã trở thành người cung cấp giảng viên cho chữ Thái VNTN như trường hợp ông Hà Anh Đức.
Học chữ Thái tuy nói là tự nguyện và khuyến khích nhưng nhất thiết phải được cấp uỷ Đảng và Chính quyền địa phương tổ chức thực hiện. Việc tổ chức thực hiện học chữ Thái VNTN theo quy mô cấp huyện đã thành công chính là bài học rút ra từ Mai Châu. Tương tự như thế có thể áp dụng ở các địa bàn như huyện Văn Trấn và thị xã Nghĩa Lộ (Yên Bái), những huyện thuộc miền tây 2 tỉnh Thanh Hoá và Nghệ An. Ngược lại, đối với Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, vì người Thái cư trú ở khắp các huyện cho nên việc tổ chức học và dùng chữ Thái VNTN có thể và cần thiết đặt ở quy mô cấp tỉnh sẽ thích hợp hơn.
Sự thành công của lớp học chữ Thái VNTN ở Mai Châu cũng cho thấy việc tổ chức thực hiện được bắt đầu từ các nghị quyết của huyện Đảng bộ, tiếp đó là nghị quyết của HĐND huyện rồi đến quyết định thành lập Ban chỉ đạo lớp học của UBND huyện. Và như vậy mọi sự vận hành của lớp học chữ Thái VNTN đều được tự do trong khuôn khổ hợp pháp thấu tình đạt lý.
Trước mắt, nên thu hút đối tượng cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân trong diện xoá mù chữ và bổ túc văn hoá, chưa vội đưa ngay vào hệ thống trường sở như thời sử dụng chữ Thái thống nhất - cải tiến 1961. Đương nhiên, trong nay mai cũng có thể phối hợp với Trung tâm Giáo dục Dân tộc - Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến tới thí điểm dạy học chữ Thái VNTN ở các lớp trong bậc tiểu học.
Phải chuẩn bị tốt việc biên soạn tài liệu giảng dạy và học tập cũng như đào tạo giảng viên và giáo viên.
Các tài liệu dạy và học do thổ ngữ của người trực tiếp biên soạn được giảng viên và giáo viên soạn lại theo tiếng địa phương của mình như ông Hà Anh Đức đã thực hiện tại lớp học chữ Thái VNTN ở huyện Mai Châu.
Ấn phẩm nên biết
* “Văn hoá và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam” của Chương trình Thái học Việt Nam, do NXB Văn hoá - thông tin ấn hành tại Hà Nội, năm 2002. Tác phẩm có quy mô 904 trang in trên khổ giấy 20x29 cm, bao gồm 115 báo cáo tham luận về nghiên cứu Thái.
* “Danh sách tổ tiên họ Lò Cầm ở Mai Sơn – Sơn La”- ấn phẩm của chương trình nghiên cứu gia phả Việt Nam thuộc Trung tâm Nghiên cứu VN và Giao lưu Văn hoá tại Đại học Quốc gia Hà Nội, do Cầm Trọng và Kashinaga Masao sưu tầm, nghiên cứu và biên dịch, NXB Thế giới ấn hành, H. năm 2003. Tác phẩm có quy mô 210trang, in trên khổ giấy 15x23 cm, gồm phần nguyên bản chữ Thái cổ, phần dịch ra quốc ngữ và phần nghiên cứu văn bản.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 66, 5/2004







