“Vận nước”
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh
(Thiền sư Pháp Thuận (915 - 990))
Đã một thời, cách nghĩ như thế này “Ông cha từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời. Cửa vẫn đóng và đời im im khóa”… từng dẫn dắt cảm xúc thẩm mỹ của không ít người, và rồi câu thơ ấy của Chế Lan Viên đã từng được lớp trẻ ngâm nga, thú vị. Rồi bổ sung cho cách thưởng thức đó, người ta thành thật nghĩ rằng: “Một câu hỏi lớn không lời đáp. Cho đến bây giờ mặt vẫn chau” trong câu thơ của Huy Cận! nhưng có đúng thế không nhỉ?
Trong sự thăng hoa cảm xúc, Chế Lan Viên đã khẳng định không chút e dè: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng… Những ngày ta sống đây là những ngày đẹp nhất”. Có lẽ khi nghĩ lại những điều mình viết, trong Di cảo Thơ, tác giả của những câu thơ trên tự nhủ: “Khi anh gần chạng vạng/ Thì có người bình minh/ Đừng lấy hoàng hôn anh ngăn cản/ Ban mai của họ sinh thành”. Có lẽ cần phải thấy thêm rằng, lấy “hoàng hôn” ngăn cản “ban mai” thì xem ra nguy hiểm cũng chẳng kém việc nhằm tụng ca cái hôm nay mà phũ phàng với cái đã qua, phũ phàng với lịch sử, chưa nói đúng về ông cha mình.
Bởi vậy ngẫm cho kỹ, sẽ nhận ra sự dễ dãi đến bạc bẽo khi đưa ra những phán xét, cho dù bằng những rung động thẩm mỹ có phần cảm tính, về ông cha. Ông cha ta đâu có “bế tắc”, cái “câu hỏi lớn” mà nhà thơ cho là “không lời đáp” là gì nếu không là vận mệnh của đất nước? Nếu thế thì ông cha ta đã từng đưa ra những lời đáp thật thuyết phục với những bằng chứng lịch sử không thể bác bỏ. Không như vậy thì làm sao có “Nghìn năm Thăng Long” để hôm nay chúng ta long trọng và tưng bừng kỷ niệm. Và chính vào những thời khắc lịch sử đầy ý nghĩa này, người ta càng thấm thía nhận ra rằng, lịch sử là một thành phần mà nếu thiếu nó, thì không một ý thức dân tộc nào có thể được khẳng định. Mà nếu không có điều ấy thì cũng không thể có bất cứ sự phát triển. Mà giả dụ nếu có, thì e chỉ có thể là sự vong bản, tự đánh mất mình, khởi đầu bằng đánh mất văn hóa. Vì thế, kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, xét đến cùng, là để khẳng định bản lĩnh văn hóa Việt. Phải có bản lĩnh ấy để tồn tại và phát triển trong cái thế kẹt địa - chính trị đầu cầu dẫn đến một vùng Đông Nam Á giàu tiềm năng, vốn luôn là đối tượng của những tham vọng bành trướng khó bề thay đổi. Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long cũng là để gợi nhớ và tôn vinh một bản lĩnh văn hóa, bản lĩnh của vị vua khai sáng vương triều Lý.
Sau chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đánh tan quân Nam Hán, chặn đứng mộng bành trướng, mở đầu việc dựng xây nền móng cho một nhà nước tự chủ, thì quyết định dời đô về Thăng Long của Lý Thái Tổ là sự khẳng định quyết tâm củng cố nền độc lập và phát triển đất nước. Trên ý nghĩa ấy, cần thấy cho ra Chiếu dời đôthể hiện một tầm nhìn khởi đầu một sự nghiệp. Cũng có thể nói, Chiếu dời đôcủa vua Lý Thái Tổ là sản phẩm của một bản lĩnh văn hóa. Không có bản lĩnh văn hóa ấy thì dễ gì hôm nay đất nước có một thủ đô nghìn năm tuổi.
Đương nhiên, bản lĩnh ấy không ngẫu nhiên mà có. Người mở đầu cho vương triều Lý là một người được hấp thu một học vấn nghiêm chỉnh từ nhỏ. Thầy dạy của Lý Công Uẩn là thiền sư Vạn Hạnh, một nhà sư uyên bác, một trí thức đứng hàng đầu trong những người có học vấn đương thời. Hãy chỉ đọc một bài thơ của ông để cảm nhận điều đó, bài Thị đệ tử:
Thân như điện ảnh hữu toàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Thân người như bóng chớp, có rồi lại không
Như muôn cây cỏ mùa xuân tươi tốt đến mùa thu khô héo.
Ngẫm và hiểu cái lý của thịnh suy, lòng không sợ hãi.
Vì thịnh suy nối tiếp nhau như khoảng thời gian hạt sương móc trên đầu ngọn cỏ).
Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, tác giả của Lịch sử Phật giáo Việt Nam: “Trước khi mất, Vạn Hạnh đã gọi đệ tử mình ở chùa Lục Tổ đến và đọc cho họ nghe bài kể trên, rồi dặn dò đệ tử của mình: “Các con muốn đi đâu? Ta không lấy chỗ trụ để trụ, mà cũng không dựa vào chỗ không trụ để trụ”. Bài thơ này là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam… nó đúc kết cả một triết lý hành theo đuổi”. Có thể vắn tắt gợi lên những phân tích của tác giả Lịch sử Phật giáo Việt Namvề bài thơ này như sau:
Câu đầu là một cái nhìn về chính bản thân. Con người xuất hiện trên thế giới này đúng như một ánh chớp, chỉ lóe lên rồi tan biến vào đâu đó trong không gian mênh mông của vũ trụ. Con người, như vậy, vừa có tính bi kịch, nhưng lại vừa có tính thần thánh cao sang của nó. Câu hai là một cái nhìn tổng quát về thế giới con người đang sống, một cái nhìn về quy luật của phát triển xã hội. Xã hội nào có thịnh rồi cũng có suy. Tổ chức cao nào cũng có lên rồi cũng có xuống. Xã hội loài người chuyển dịch theo những quy luật vận động đó đã tạo nên sự thịnh suy. Con người Phật giáo biết nắm lấy quy luật vận động đó [nhậm vận]ư thì đứng trước sự thịnh suy hoàn toàn có thể làm chủ được tình thế, chẳng có gì phải sợ hãi. Mà có gì phải sợ hãi khi sự thịnh suy đó diễn ra cũng chóng vánh như một hạt sương mai long lanh trên ngọn cỏ trong chốc lát biến mất dưới ánh sáng của mặt trời.
Triết lý hành động của Vạn Hạnh yêu cầu con người phải chủ động nắm lấy quy luật phát triển của sự vật và xã hội để không có gì phải choáng váng khi một biến cố nào đó xảy ra, để tích cực hành động, thúc đẩy lịch sử tiến lên. Cả cuộc đời trên 90 năm của Vạn Hạnh đã thể hiện được trọn vẹn triết lý hành động này. Trong số những đệ tử đến giã từ ông lần cuối và nhận bài kệ thị tịch đó, chắc hẳn không thiếu Lý Thái Tổ. Dáng chừng bài kệ này muốn nhắn gửi trước tiên đến Lý Thái Tổ, vì sự thịnh suy của triều đại còn chóng vánh hơn cả sự có không của thân mạng con người, đây là một triết lý hành động tích cực xuất phát từ những con người đã làm nên thời kỳ oanh liệt của lịch sử đất nước (1).
Cần lưu ý, đây không chỉ là nhận định của những người theo đuổi sự nghiệp Phật giáo, mà ngay những nhà nho vốn không mặn mà nếu chưa muốn nói đến kỳ thị khi nhìn nhận về vai trò của nhà Phật trong đời sống tinh thần của xã hội, cũng có những đánh giá cao về thiền sư Vạn Hạnh. Ngô Sĩ Liên là một ví dụ. Nhìn nhận về Lý Thái Tổ, ông cho rằng: “Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về… Có mưu lược của bậc đế vương”, tuy vậy, ông vẫn hạ một câu chê trách: “Duy chỉ có việc ham thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém (!?)”. Ấy vậy mà, nói về thiền sư Vạn Hạnh, Ngô Sĩ Liên vẫn phải viết: “Sư Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Thái Tổ, biết là người khác thường… đoán biết thời thế thay đổi, như thế là có tri thức vượt người thường”. Cũng như thế, bằng quan điểm của một nho gia, Ngô Thì Sĩ không đồng tình với các nhà sư trong cách hành xử, nhưng vẫn phải nhận định rằng “Vạn Hạnh có kiến thức vượt ra ngoài mọi vật, có thần toán trước cả cơ trời, cũng là đại biểu của dòng thiền” (Việt sử tiêu án) (2).
Tất nhiên, những điều đã dẫn ra ở trên không đến từ một khoảng trống lịch sử, mà là đã phát triển một cách lôgic từ truyền thống văn hóa dân tộc. Thời đại của Vạn Hạnh là thời đại dân tộc đang đấu tranh bền bỉ cho nền độc lập và thống nhất tổ quốc, để có thể xây dựng và phát triển một đất nước thanh bình và một nền Phật giáo hưng thịnh. Vì thế, không chỉ có một bài thơ của Vạn Hạnh. Ngược về trước, còn những bài thơ gợi lên cảm thức hùng vĩ về đất nước, về con người mà bài thơ Quốc tộcủa thiền sư Pháp Thuận (915 - 990) là những ví dụ sống động về dòng thơ quan tâm đến vận mạng của đất nước, đến cuộc sống của người dân, được nhìn nhận như là “dòng thơ chủ lưu của nền văn học Việt Nam” (3), một kiệt tác ghi lại dấu ấn của một tầm vóc tư tưởng và triết lý mà đến cả nghìn năm sau, đọc lại vẫn tươi nguyên tính hàm súc, giàu sức thuyết phục:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện cách
Xứ xứ tức đao binh.
(Vận nước đan xen với nhau như mây quấn/ Đất trời Nam đang hướng thái bình/ Nếu triều đình thấm nhuần lẽ vô vi/ Mọi nơi sẽ không còn chiến tranh).
Bời bời vận nước quấy mây
Trời Nam mở lượng đó đây thái bình
Thiền tâm thấm tận triều đình
Thì nhân gian dứt đao binh đời đời.
(Nguyễn Duy dịch thơ)
Phải trở lại với bối cảnh ra đời của bài thơ mới thấy hết được những ý tứ sâu sắc tiềm ẩn trong hình tượng, trong câu chữ của bài thơ ra đời cách đây hơn 1.000 năm. Đó là bối cảnh mà Việt giám thông khảo tổng luậnchép: “Nước nhà nhiều nạn, xã tắc lâm nguy, lại thêm giặc Chiêm quấy nhiễu phía nam, quân Tống xâm lăng phía bắc, quyền thần nắm vận nước, người trong nước lìa lòng… họ Đinh dấy lên do ở Tiên Hoàng mà họ Đinh mất đi cũng là do Tiên Hoàng, không phải mệnh trời không giúp, chính là vì mưu của người không ra gì. Lê Đại Hành cầm quyền 10 đạo, giữ chức nhiếp chính, vua bé nước nguy, nhân thời chịu mệnh, giết vua Chiêm Thành để rửa cái nhục sứ thần bị bắt, phá quân Triệu Tống làm nhụt cái mưu tất thắng của chúng… Cày ruộng tịch điền ở Long Đọi, mời người xử sĩ ở Tượng Sơn, kén dùng hiền tài, dựng mở trường học, có mưu lược to lớn của bậc đế vương” (4).
Bài thơ nói trên chính là câu trả lời của thiền sư Pháp Thuận đối với câu hỏi của nhà vua về vận nước trong bối cảnh thù trong giặc ngoài. Câu hỏi thể hiện một trực cảm của nhà chính trị đứng trước những thử thách khắc nghiệt của một vương triều mới dấy nghiệp, và câu trả lời cũng là một trực cảm chính trị sâu sắc trên nền tảng một triết lý nhân bản thâm hậu.
Trọng lực của ý tưởng cũng như sự đúc kết toàn bộ triết lý của tác giả bài thơ dồn vào khái niệm “vô vi”. Vận nước có dài lâu được hay không tùy thuộc vào nhận thức và ứng xử của người gánh vác trọng trách với sơn hà xã tắc, đất trời Nam đang hưởng thái bình liệu có duy trì được tiếp hay không, là do ở chỗ “Vô vi cư điện các. Xứ xứ tức đao binh” (nếu triều đình thấm nhuần lẽ vô vi [thì] mọi nơi sẽ không còn chiến tranh).
Chiến tranh ở đây là những cuộc tranh bá đồ vương, nồi da xáo thịt của anh em dòng họ và của các phe nhóm muốn tranh giành ngôi vua, kiếm trác quyền lực mà hệ lụy là loạn lạc, là máu xương đổ lên đầu trăm họ. Loạn 12 xứ quân làm sụp đổ vương triều Ngô, rồi loạn Đỗ Thích giết vua để rồi bị giết và tiếp theo là các tướng cũ của Đinh Tiên Hoàng định mưu phạt Lê Hoàn (Lê Đại Hành) để rồi bị giết, kết thúc vương triều Đinh. Và đồng thời, đáng ngại hơn nữa, là âm mưu xâm lược từ phương Bắc khi nhà Tống chấm dứt thời kỳ “Ngũ đại thập quốc” và đang bành trướng về phía nam. Tháng 4 - 981, đội quân xâm lược do Hầu Nhân Bảo chỉ huy chia quân làm hai ngả, hòng nuốt chửng quốc gia nhỏ bé không chịu thuần phục cứ như cái xương mắc trong cổ họng khiến không nuốt được những miếng mồi ngon phương Nam. Bị đánh tan tác trên cửa sông Bạch Đằng, Hầu Nhân Bảo phải đền mạng. Năm 1005, Lê Đại Hành mất, các con tranh chấp ngôi vua, đem quân đánh lẫn nhau, kết thúc nhà Tiền Lê.
Có hiểu bối cảnh đó mới hiểu được ý tưởng của thiền sư Pháp Thuận muốn tác động đến suy nghĩ của người đứng đầu trăm họ. Liệu có phải hai chữ “vô vi” trong bài thơ của ông có gốc gác từ kinh Lục độ tậpcủa nhà Phật “Cẩn thận không kiêu ngạo, là hạnh của học sĩ, bỏ lòng dơ ân ái, không lấm bụi bậm của sáu tình, không để các ái nhỏ như tóc tơ che giấu trong lòng minh thì các niệm lắng diệt, đó là vô vi” (5).
Rõ ràng là “vô vi cư điện các” hàm nghĩa một phẩm chất được hình thành và nuôi dưỡng từ một tư tưởng triết học Phật rất sâu sắc. Để có thể “vô vi cư điện các” (triều đình thấm nhuần lẽ vô vi) thì tất nhiên người đứng đầu trăm họ phải là người có trí và có đức. Có được điều đó mới chấm dứt được nạn binh đao khiến muôn dân chịu cảnh lầm than, đem xương máu lót đường cho những mưu ma chước quỷ trong những cuộc tranh bá đồ vương nhằm giành giật cái ghế quyền lực.
Oái oăm thay, những con người với những phẩm chất như vậy thường chỉ xuất hiện trong thời kỳ mở đầu cho một triều đại! Rồi triều đại do họ lập nên thịnh suy, dài ngắn ra sao gắn liền với việc những phẩm chất đẹp đẽ như vừa nói của người nắm quyền lực giữ gìn, kế thừa và phát huy đến đâu, hay lụn bại dần dần rồi dẫn đến chỗ băng hoại.
Sự suy thoái về phẩm chất, về đạo lý của người cầm quyền gắn liền với sự rối ren của thời cuộc, sự ly tán của lòng dân, vận nước gặp buổi khó khăn dẫn tới sự sụp đổ của một triều đại là điều thường thấy, và dường như đã thành quy luật “đẩy thuyền là dân mà lật đổ thuyền cũng là dân”.
Những người lập nên một triều đại mới thường phải trải qua thời “nằm gai nếm mật” nên hiểu được nguyên lý “đẩy thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân” nói trên, do vậy mà biết lo tìm cách “an dân”, “khoan thư sức dân”, thu phục nhân tâm, trọng dụng hiền tài. Nhưng rồi những hậu duệ của họ, nếu không được giáo dục và rèn luyện, thì theo quy luật khắc nghiệt của quyền lực bị tha hóa, sẽ chóng vánh bộc lộ những bệnh hoạn của kẻ ăn trên ngồi trốc nhờ những ngẫu nhiên của lịch sử mà leo được lên, không có “đức”, cũng chẳng có “trí”, thế tất nhanh chóng bị lịch sử phế bỏ. Đó là chuyện xảy ra như cơm bữa, xưa nay đều như vậy.
Xem ra, sự diễn đạt hết sức cô đọng quan điểm triết lý “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy/ Thịnh suy như lộ thảo đầu phô” trong lời thị tịch của Vạn Hạnh không chỉ biểu lộ một bản lĩnh, một nhân cách mà còn là sự đúc kết một quy luật.
Điều cần phải khẳng định là tài đức của Lý Thái Tổ, người khai sáng thế kỷ XI, mở ra một trang mới trong lịch sử nước nhà với thủ đô Thăng Long trường tồn cả nghìn năm, trải nghiệm bao thăng trầm biến động không phải ngẫu nhiên mà có. Tài đức ấy, bản lĩnh ấy là do được dạy dỗ, rèn đúc từ ấu thơ bởi những bậc danh sư như thiền sư Vạn Hạnh, một đỉnh cao của trị thức đương thời. Mà tầm cao tri thức ấy là do thu góp cả một đời người từng sống qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê để góp phần dựng nên vương triều Lý. Phải chăng vì thế mà gây dựng được nền móng cho một vương triều dài 216 năm, có thể nói là dài hơn bất cứ triều đại nào sau đó.
Chẳng phải bây giờ, mà trước đây, Lý Nhân Tông sống vào nửa thế kỷ sau Vạn Hạnh, vẫn hết lời ghi nhận công đức của vị thiền sư có công lớn dựng nên cơ nghiệp nhà Lý: “Vạn Hạnh dựng ba cõi/ Thật hợp sấm lời xưa/ Quê hương tên Cổ Pháp/ Chống gậy giữ kinh vua”.
Chừng nào người đứng đầu trăm họ còn theo đuổi được một triết lý nhân bản, còn nắm được quy luật “nhậm vận thịnh suy, thịnh suy như lộ thảo đầu phô” thì vận nước còn có cơ hưng thịnh. Một khi mà những kẻ cầm quyền suy đốn, nhân tâm ly tán, họa ngoại bang rình rập thì vận nước suy vong. Tuy nhiên, “quốc tộ như đằng lạc” (Vận nước đan xen với nhau như mây quấn), sự suy vong của một triều đại chỉ có thể là một sự chuẩn bị cho việc ra đời của một triều đại mới đáp ứng được khát vọng của nhân dân. Mà sức dân thì như nước có thể đẩy thuyền, cũng dư sức lật thuyền. Vả chăng, “thịnh suy nối tiếp nhau chỉ như khoảng thời gian hạt sương móc trên đầu ngọn cỏ”. Cái mới đã ươm mầm từ trong cái cũ, và sự ra đời của cái mới là không gì có thể cưỡng lại được.
Thì đấy, “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” (Đừng bảo xuân tàn hoa cũng rụng hết. Đêm hôm qua, trước sân (rộ) một cành mai). Đây là lời nhắn gửi của thiền sư Mãn Giác, người sống cùng thời với Lý Thánh Tông, trong bài Cáo tật thị chúng (có bệnh báo mọi người). Ở đây là một cách diễn đạt khác về điều nhà thiền sư Vạn Hạnh khuyến cáo vừa dẫn ở trên: “Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô” (Như muôn cây cỏ mùa xuân tươi tốt đến mùa thu khô héo).
Sự sống thật sự vô cùng, vô tận và bất diệt. Đó là vận động bất tận. Mà vận động luôn luôn là tự thân vận động, những cú hích ở bên ngoài chỉ có tác động nhằm thúc đẩy nhanh những “hợp trội” khiến nảy sinh những đột biến, thúc đẩy sự phát triển. Sự tự nhân vận động ấy là không sao cưỡng lại được.
Suy ngẫm về ngày kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, gợi nhớ hình ảnh vị vua khai sáng nhà Lý cách đây 10 thế kỷ, đọc lại Chiếu dời đôcàng thấm thía đến lẽ thịnh suy và vai trò của văn hóa trong sự định hình một triều đại vốn giữ một vị thế hết sức độc đáo trong lịch sử dân tộc. Ở đây là văn hóa thấm nhuần triết lý Phật. Vào thời đó, Phật giáo được xác định như một con đường “mà ngoài xã hội có thể cứu dân giúp nước, còn ở nhà thì có thể phụng thờ cha mẹ và lúc ở một mình thì có thể dùng để hoàn thiện bản thân” như Mẫu Tử đã viết trong Lý hoặc Luận (6).
Với tính cách là một lực lượng văn hóa dân tộc, Phật giáo không thể tách rời sự nghiệp đấu tranh thường trực để dựng nước và giữ nước của dân tộc. Có thể hiểu vì sao những bài thơ Thiền thấm đẫm triết lý Phật dẫn ra ở trên đều hàm chứa mối quan tâm đến vận nước. Chính ở đây, khi nói về mối tương quan giữa thiên nhiên, đất nước và con người đã cố thể hiện sâu sắc quan điểm “duyên sanh” cơ bản của triết lý Phật giáo.
Đưa ra những cảm nhận trên đây cốt chỉ để trình bày một nhận thức: được đào luyện từ tấm bé, với một bản lĩnh văn hóa được dày công hun đúc, Lý Công Uẩn đã trở thành Lý Thái Tổ, mở đầu cho một triều đại dài nhất trong lịch sử dân tộc. Xét đến cùng, đó là bài học về văn hóa, mà ở thời đoạn lịch sử thế kỷ XI - XII là sự kết tinh của triết lý Phật, điểm tựa cơ bản nhất của triều đại nhà Lý.
Chú thích:
1/ Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb, KHXH, Hà Nội, 1998.
2/ Lê Mạnh Thát , Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập II, Nxb Tổng hợp, TP. HCM. 2006.
3/ Lê Mạnh Thát, sđd.
4/ Đại Việt sử ký toàn thư, sđd.
5/ Lê Mạnh Thát, sđd.
6/ Thơ Thiền Lý Trần, “Lời nói đầu”, Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2005. Tr 7.