Văn hoá Đại Việt xưa và nay
Năm 1979 Tổ chức Văn hoá - Khoa học - Giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO) đã quyết định ghi Nguyễn Trãi vào danh sách các danh nhân văn hoá thế giới để các nước hội viên tổ chức kỷ niệm trong năm 1980. Sau cuộc hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi tại Hà Nội, Yvelin Feray trong Đoàn văn hoá Pháp đã có linh cảm đặc biệt về một nhân vật lịch sử đầy huyền thoại từ thế kỷ XV ở phương Đông này.
Được sự cổ vũ của một số học giả có uy tín, chị đã vượt qua nhiều khó khăn về thời gian và không gian, đầu tư công sức trong nhiều năm để khai thác các nguồn dữ liệu cũ, hoàn thành một bộ tiểu thuyết lớn về thân thế và sự nghiệp Nguyễn Trãi. Bộ tiểu thuyết hơn 1.000 trang mang tên “Dix mille Printemps” xuất bản ở Nice năm 1989 đã thu hút được khá nhiều bạn đọc Pháp và các nước phương Tây. Đến năm 1997 được Nhà xuất bản Văn học dịch và cho ra mắt bạn đọc Việt Nam với cái tên thật đẹp và đúng nghĩa “Vạn xuân”.
Biết khai thác hợp lý các nguồn tài liệu cổ kim, Đông, Tây bằng nguồn cảm xúc nồng nhiệt và trí tưởng tượng phong phú, sáng tạo độc đáo của mình, Yvelin đã tái hiện khá đầy đủ những chi tiết tình cảm sâu đậm, tinh tế nhất của Nguyễn Trãi và những nhân vật có liên quan. Từ những câu chuyện tình cảm lãng mạn nhưng rất thầm kín sâu sắc của Trần Thị Thái với Nguyễn Phi Khanh, Trần Thị Thanh với Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ. Những mối quan hệ song phương, đa phương nhiều uẩn khúc, phức tạp của các mối tình thầy-trò, cha con anh-em, bạn bè, họ hàng nhiều thế hệ, mấy dòng họ nổi tiếng.
Qua nhân vật trung tâm của thời đại, “Vạn xuân” đã mô tả được toàn cảnh một thời kỳ lịch sử đáng ghi nhớ: Nhiều mối quan hệ lắt léo, phức tạp của các nhân vật thế lực bè phái trong triều đình phong kiến Việt Nam thời đại cuối nhà Trần đến nhà Hồ, nhà Lê - Những giao thời của lịch sử luôn phải đối mặt với những mưu toan và hành động cực kỳ nham hiểm của các tập đoàn phong kiến hùng mạnh phương Bắc. Thực hiện mưu đồ bá chủ, “Thiên triều” nhà Minh đã tiến hành nhiều cuộc bành chướng về phương Nam, sử dụng cuộc xâm lăng tàn bạo nhất để dìm cả một dân tộc nhỏ bé trong biển máu khốc liệt.
Trước những thảm cảnh đau thương tang tóc đến cùng cực, nhân dân các dân tộc trong cộng đồng Đại Việt đã không thể cam chịu mãi. Họ đồng lòng tập hợp theo nghĩa quân, thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ dưới ngọn cờ khởi nghĩa của người anh hùng áo vải đất Lam Sơn.
Là linh hồn của cuộc khởi nghĩa, vị quân sư đại tài Nguyễn Trãi đã thể hiện được những tài năng uyên bác, đầy thao lược của mình. Qua sách Bình Ngô, ông đã hướng nghĩa quân Lê Lợi thực hiện tư tưởng chỉ đạo, “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.Khéo kết hợp ý chí chủ động “công thành” với “công tâm” để tập hợp các lực lượng, phe phái còn phân tán, động viên mọi sự đóng góp của đông đảo quần chúng nhân dân. Từng bước tạo đủ sức mạnh, đánh tan ý chí, tinh thần và sức lực của những binh hùng tướng mạnh phương Bắc.
Những cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt trong nội bộ nghĩa quân, cũng như các cuộc đối thoại, thương thuyết hoặc trực tiếp đọ sức quyết liệt với mọi đối tượng kẻ thù nham hiểm nhất, đã thể hiện bản lĩnh vững chắc, uyên thâm và sự ứng đối rất linh hoạt của Nguyễn Trãi.
Sau khi quét sạch bóng quân thù, giải phóng quê hương, giành độc lập dân tộc, ông tiếp tục giúp Triều đình nhà Lê chỉ đạo thành công nhiều chính sách cải cách kinh tế, chính trị, xã hội, để thực hiện mục tiêu “ quốc thái dân an”. Song thật đáng tiếc, một chiến lược gia lỗi lạc, có nhiều công lao trong cả quá trình dựng nước và giữ nước lại không lường hết được những mưu đồ đen tối, xảo quyệt của các thế lực tàn bạo nơi cung đình. Khi đã từ quan về ở ẩn, ông vẫn bị bè lũ phản nghịch, tìm cách sát hại thảm khốc.
Tất cả những chi tiết về những sự kiện gay go, quyết liệt trong cuộc đấu tranh giải phóng, những chuyện bi ai về huyền thoại “rắn báo oán” đều được tác giả thể hiện hấp dẫn và lý thú trong tiểu thuyết “Vạn xuân”. Song trong lối phi lộ của mình, Yvelin viết: “Cuốn sách này không chỉ nhằm trình bày một cuộc đời được tiểu thuyết hoá, hay một tiểu sử được thêm màu văn vẻ…” mà “là một cuốn tiểu thuyết về một nền văn hoá ở vào chính cái thời điểm của một dân tộc đứng lên bảo vệ bản sắc và tự do của mình.
Đó là nền văn hoá Đại Việt vốn có nhiều phong tục truyền thống tốt đẹp lâu đời, nhưng thường xuyên phải thực hiện những cuộc đấu tranh quyết liệt để tồn tại và phát triển bên cạnh một nền văn hoá lớn ở phương Bắc - nơi luôn có những mưu đồ nham hiểm, tàn bạo, muốn nô dịch, đồng hoá các nền văn hoá dân tộc, quốc gia khác.
Chính nền văn hoá Đại Việt có truyền thống xa xưa ấy là cái nôi kiến tạo nên những mối quan hệ, tình cảm và phong cách sống giản dị, nhân hậu, vị tha và bao dung… Tuỳ theo những điều kiện lịch sử cụ thể biểu hiện những mức độ khác nhau nhất định. Song khi phải đối đầu với những lực lượng thù địch hùng mạnh bên ngoài, họ sẵn sàng hy sinh mọi quyền lợi riêng tư, đoàn kết nhất trí dưới ngọn cờ đại nghĩa, thực sự “Vì dân vì nước”, để cùng nhau tạo sức mạnh tổng hợp, đủ sức đè bẹp thù trong giặc ngoài, kiên quyết bảo vệ quê hương đất nước. Đó chính là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi ở các cuộc chiến tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thắng lợi giòn rã trên thế tiến công vũ bão, nghĩa quân Lam Sơn vẫn rất khoan dung, nhân hậu, sẵn sàng cấp đủ phương tiện cho kẻ thù lui binh trong danh dự. Hội thề Đông Quan là một kiểu mẫu nổi tiếng cho việc kết thúc chiến cuộc đầy nhân ái: vừa tránh đổ máu vô ích cho quân dân 2 phía, vừa lấy được “ ân trả oán”, tạo điều kiện lập những mối bang giao hoà bình, hữu nghị với mọi quốc gia kể cả những kẻ thù cũ của dân tộc.
Những bài học lịch sử về tư tưởng văn hoá “ chí nhân - đại nghĩa” sau hơn 5 thế kỷ lại được nhân dân ta vận dụng sáng tạo, linh hoạt hoá trong quá trình tiến hành thắng lợi 2 cuộc kháng chiến thần thánh, liên tiếp đánh thắng các thế lực hùng mạnh và tàn bạo nhất của thực dân, đế quốc, giành độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ cho tổ quốc. Từ đó, ý nghĩa chính trị - nhân văn của truyền thống văn hoá Việt Nam ngày càng có những vị trí, tầm vóc cao hơn.
Ngày nay, khi bước vào thời đạimới, trước những khó khăn thách thức lớn, nhiều yếu tố văn hoá của chúng ta còn phải tiếp tục nỗ lực hoàn thiện để phát huy tác động tích cực vào sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, góp nhữngphần xứng đáng vào sự phát triển chung của văn minh nhân loại.Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 63, 2/2004, tr 8, 32








