Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 04/01/2012 21:04 (GMT+7)

Vai trò tri thức bản địa của người Chăm Ninh Thuận trong ứng xử với môi trường nước

1. Tri thức bản địa của người Chăm trong mối quan hệ tương tác với tự nhiên

Con người là một thực thể của tự nhiên, sinh ra từ tự nhiên và sống cùng, sống với tự nhiên. Tri thức bản địa là những kinh nghiệm được đúc kết qua hàng nghìn năm của mỗi dân tộc. Người Chăm cũng như các cư dân Đông Nam Á khác, có nền văn hóa nông nghiệp lúa nước phát triển sớm và có kho tàng tri thức bản địa phong phú. Tri thức bản địa là một tập hợp, bao gồm cả những tri thức có tính chất khoa học trong việc cải tạo thiên nhiên và cả những tri thức mang tính siêu hình là tín ngưỡng tôn thờ, cầu cúng các vị nhiên thần. Tri thức bản địa của người Chăm cũng vậy, bên cạnh những hệ thống dẫn thủy nhập điền được xây dựng cách đây hàng nghìn năm, người Chăm vẫn giữ được hệ thống nghi lễ cầu mưa, cầu mùa, chứa đựng kho tàng văn hóa bản địa phong phú. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến tri thức bản địa của người Chăm vùng Ninh Thuận - Bình Thuận trong việc ứng xử với môi trường nước.

2. Vùng người Chăm sinh sống - vùng đất khát

Người Chăm cư trú dọc theo vùng đồng bằng nhỏ hẹp miền Trung, nơi có điều kiện địa lý khí hậu khắc nghiệt. Theo sử Trung Quốc, đoạn miêu tả Chiêm Thành trong Lingwai Daida, soạn năm 1178 có ghi: “tất cả đất đai đều là cát trắng, đất trồng trọt được thì rất hiếm”. Vùng đất Panduranga có các dãy núi cao bao bọc đã tạo nên những bức bình phong chắn những luồng gió mùa Đông - Bắc và Tây - Nam mang mây và mưa tới vùng đất khô hạn này. Vùng Panduranga (Phan Rang) có lượng mưa ít nhất Việt Nam (695m/m) và chỉ có mưa trong vòng 52 ngày. Trong khu vực Ninh Thuận, có nhiều núi trọc và núi đá granit phản chiếu và hội tụ một lượng nhiệt lớn nên không khí ban ngày luôn oi bức, độ bức xạ lớn, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 27 - 28 oC. Vùng đất Phan Rang chịu ảnh hưởng gió mùa Đông - Bắc thổi mạnh và liên tục từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau. Từ sau tháng 12 là mùa khô, gió chướng và nắng hạn. Đa phần đất nông nghiệp không canh tác được vì thiếu nước. Địa hình đồng ruộng của người Chăm ở Ninh Thuận chủ yếu là ở trong vùng lòng chảo, được bao bọc bởi các dãy núi nên mùa khô thì rất khô hạn, nhưng vào mùa mưa lại hay bị lũ quét và ngập úng. Các sông suối ở vùng đồng bào Chăm lưu vực hẹp và lưu lượng nước thấp và chủ yếu có nước về mùa mưa, còn về mùa khô hầu như cạn kiệt. Các dòng sông ở đây ít chi lưu, phụ lưu, sông ngắn, độ dốc cao, vì vậy về mùa mưa tạo thành những con lũ chảy ra biển. Do vậy, mạch nước ngầm ở đây trữ lượng rất ít. Vùng duyên hải ven biển vì vậy luôn bị mạch nước mặn xâm thực. Với điều kiện khí hậu như vậy nên nguồn nước sinh hoạt và canh tác nông nghiệp của người dân nơi đây rất khó khăn. Nhiều diện tích đất bằng phẳng nhưng khô hạn, nắng cháy như sa mạc. GS Lê Bá Thảo gọi vùng đất này là “vùng sa thảo độc nhất ở Đông Nam Á”.

Bờ biển ở miền Trung gồ gãy, nhiều nơi núi cao ăn lan ra tận biển, có những ngọn núi sát biển cao tới hàng nghìn mét hình thành nên những con suối nước ngọt chảy từ trên núi xuống, từ trong núi ra tạo thành những mạch nước ngọt ngầm ngay bờ biển. Đây cũng là lý do giải thích vì sao dọc bờ biển lại có những giếng nước ngọt cổ Chăm (giếng Hời) mà xa xưa là nguồn cung cấp nước ngọt cho tàu thuyền qua lại trên “con đường tơ lụa”.

3. Tri thức bản địa của người Chăm trong việc cải tạo môi trường nước

Để phát triển nông nghiệp trên một vùng đất không hề thuận lợi, các triều đại Chăm Pa xưa đã tiến hành xây dựng các công trình thủy lợi. Hệ thống Đập Nha Trinh (Chaklinh) do Po Klongrai (1151-1205) xây dựng bao gồm một đập ngăn nước trên nguồn sông Cái, bốn đập nhỏ và hai con mương, mương Cái và mương Đực .

Mương Cái dài khoảng 60 km, chỗ rộng nhất đến 8 mét, đoạn hẹp nhất là 2 mét, mương Đực dài khoảng 50 km. Đập nước Nha Trinh qua nhiều thời đại mở mang, hiện nay dài 385 mét, cao 5 mét, rộng 3 mét. Hệ thống thủy lợi Nha Trinh có thể tưới cho trên một vạn hecta gieo trồng. Đập Ma Rên do Vua Po Rame (1627-1651) xây dựng trên sông Biêu, ngoài đập chính còn có 7 đập nhỏ và một hệ thống gồm các mương con. Ngày nay, với những công trình xây dựng thủy lợi hiện đại hơn, nhưng vẫn trên cơ sở phát triển, mở rộng hệ thống dẫn thủy nhập điền từ xa xưa của người Chăm.

Mỗi làng Chăm từ xưa đến nay có một người chuyên trách về thủy lợi gọi là “cai đập” với nhiệm vụ trông coi, tu sửa đập và mương nước. Hệ thống thủy lợi được xây dựng từ xa xưa nay vẫn được sử dụng.

4. Tín ngưỡng bản địa của người Chăm trong ứng xử với môi trường nước

4.1. Sự hỗn dung trong tín ngưỡng tôn giáo Chăm

Văn hóa Chăm là sự hỗn dung tín ngưỡng và tôn giáo. Tín ngưỡng bản địa là cái có trước. Về sau, tôn giáo du nhập vào dân tộc Chăm và bị tín ngưỡng bản địa hóa hình thành nên văn hóa truyền thống Chăm.

Trước khi tiếp xúc với nền văn minh Ấn Độ, người Chăm đã có một nền văn hóa bản địa nằm trong cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, một nền văn hóa mang nặng dấu ấn của tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước - tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Khi tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ thông qua các tôn giáo như Bàlamôn giáo, Ấn Độ giáo, người Chăm lại tiếp nhận những tôn giáo vốn có nguồn gốc tín ngưỡng đa thần (Bàlamôn giáo). Vì vậy, hệ thống thần linh trong quan niệm của người Chăm rất đa dạng và phong phú. Ở ba tầng thiên - địa - nhân đâu đâu cũng có thần. Trên trời thì có thần trời, thần cha Yang Po, Yang A mư (Yang Po là thần trời, Yang A mư là thần cha) đây là hai vị thần tối cao thuộc dương, luôn đi cặp với nhau; thần mặt trời: Po Aditiak, thần gió Po Yang Angin; thần mưa Po Yang Chan, thần bầu trời: Po Ligik. Trên mặt đất có thần lửa: Po Yang patah apui, thần tứ phương: Po Yang Akieng, thần biển: Po Yang Atow Tathik, thần núi Po Yang atơw Chơk, thần nước Po Patah ia. Dưới đất có thổ thần: Po Bhum, v.v... Với vùng đất khô hạn, từ xa xưa người Chăm đã có sự ứng xử vừa trân trọng, vừa thân thiện, vừa tôn thờ những gì liên quan tới các vị thần, liên quan đến các hiện tượng tự nhiên. Thái độ ứng xử với môi trường nước thể hiện trong hệ thống nghi lễ đa dạng, phong phú của người Chăm để cầu đến thế lực tâm linh, thần thánh thể hiện qua hệ thống nghi lễ vừa tạ, vừa cầu cho mưa thuận, gió hòa để canh tác lúa nước đạt kết quả cao.

Người Chăm quan niệm các nghi lễ nông nghiệp có liên quan đến các yếu tố ngũ hành, được thể hiện ở các nghi lễ sau:

- Ka tê: lễ cúng cha (trời), dương                                    Kim

- Chabul: lễ cúng mẹ (đất), âm                                        Thổ

- Yon yang: lễ tế thần hỏa                                               Hỏa

- Chakap halau krong: lễ tạ mộc và chặn nguồn nước       Mộc

- Palao sha: Thủy                                                           Thủy

Trong các nghi lễ của người Chăm bao giờ cũng phải có nước. Nước để tẩy trần. Các vị chức sắc trước khi làm một nghi lễ nào đó cũng phải làm lễ tẩy thể bằng nước sạch. Trong lễ “Rija Swa” (nằm thiếp) tôn chức Mu Rija bắt buộc phải có lễ thức tắm tẩy thể cho bà bóng. Trong lễ Ka tê, các chức sắc làm lễ tắm tượng Mukhalinga cho các vị vua - thần như Po Klongirai, Po Rame, Po Inư Nưgar. Những người dự lễ hứng lấy nước tắm tượng chảy ra để bôi lên đầu, lên mặt, lên cổ để cầu sự may mắn. Tri thức bản địa và thái độ ứng xử của cộng đồng người Chăm với nguồn nước còn thể hiện thông qua hệ thống nghi lễ liên quan đến nguồn nước.

4.2. Các nghi lễ liên quan đến nguồn nước

Với một điều kiện địa lý khí hậu khắc nghiệt, nghề trồng lúa nước phụ thuộc vào các hiện tượng tự nhiên và là điểm xuất phát các tín ngưỡng nông nghiệp với hệ thống nghi lễ dày đặc. Đó là các nghi lễ cầu mưa, lễ khai mương đắp đập, lễ tế thủy thần và các nghi thức cúng tế các vị thần tự nhiên khác (nhiên thần). Trong các nghi lễ như hệ thống lễ Rija như Rija Nưgar, Rija Pruang, Rija Harei, Rija jơw và nhiều nghi lễ khác có những điệu múa phồn thực của On Kaing và Muh Rija, làm những động tác tính giao để cho âm dương giao hòa sinh ra nước và cho muôn loài sinh sôi nảy nở. Biểu tượng Shi va với bộ linga - yony là một biểu tượng âm dương có tính khái quát cao trong quan niệm nhân sinh quan, vũ trụ quan của người Chăm. Ngoài lễ thức phồn thực, trong lễ Rija Nưgar đầu năm của người Chăm còn có lễ thức đạp lửa với ý nghĩa tống ôn, tống đi cái nóng bức, những rác rưởi, những gì không may mắn của năm cũ.

Cũng bởi cư trú và sản xuất nông nghiệp trên một vùng đất khô hạn, nắng nóng đến khắc nghiệt, nên người Chăm có hàng loạt các nghi lễ liên quan đến cầu đảo, cầu mưa.

Lễ cầu đảo ( Palau sah)

Đây là lễ liên quan đến cầu mưa, cầu nước được người Chăm tổ chức vào ngày chủ nhật và thứ hai của thượng tuần tháng 2 lịch Chăm ở các đền tháp Chăm và ở các cửa biển, là nghi lễ cộng đồng với sự tham gia đông đảo của cả người Chăm theo Bàlamôn và Bàni (Ahiêr và Awal) đến từ tất cả các làng Chăm ở Ninh Thuận theo ba khu vực tôn giáo.

Lễ Palau sah được tổ chức ở các cửa biển. Cộng đồng Chăm ở khu vực tháp Po Klongirai làm lễ ở cửa Nại (Phương Hải, Ninh Hải), cộng đồng người Chăm thuộc khu vực đền Po Inư Nưgar làm lễ tại của biển Phú Thọ (Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm), cộng đồng Chăm thuộc tháp Po Rame làm lễ tại cửa biển Cà Ná (Phước Diêm, Ninh Phước). Đây là một trong những nghi lễ được tổ chức quy mô nhất trong hệ thống nghi lễ của người Chăm, là sự tổng hợp các lễ thức của người Chăm, cúng các vị thần chung của người Chăm Bàlamôn (yang bimon - yang aklak) và Bàni (yang birow - thánh Ala ) và các vị thần núi, thần sông, thần biển. Lễ này tập hợp của các chức sắc, các thầy chủ lễ dân gian của cả hai tôn giáo gồm các vị cả sư Po Adhia của Balamon, các vị Achar bên Awal cùng các thầy chủ lễ dân gian như Mưduon (thầy vỗ), Kadhar (thầy cò ke kéo đàn Rabap), thầy Kaing (ông bóng), Mu pa jơw (bà bóng), ông cai đập (binưk), ông cai mương (hamu ia) v.v...

Vào các ngày đã được các thầy Cả sư chọn, các làng Chăm tập trung về các cửa biển để làm lễ. Lễ vật dâng cúng trong lễ gồm dê, gà, cơm canh, rượu, trứng, bánh tét, bánh chà cung, chè, xôi, trầu cau, các sản vật nông nghiệp khác như lúa, hạt kê, bắp, đậu, hạt nổ...

Lễ được tổ chức trong 2 ngày. Lễ “vào” vào ngày chủ nhật, lễ “ra” vào thứ hai. Chiều chủ nhật những người phục vụ và các chức sắc làm lễ dựng rạp. Người ta dựng 5 cái rạp theo quan niệm ngũ hành: Rạp 1: nơi tế của chức sắc Bàlamôn; Rạp 2: nơi tế tự của Chức sắc Bani; Rạp 3: của thầy vỗ mưduôn và bà bóng Mu Rija; Rạp 4: On Kaing; Rạp 5: Kadhar - Mu pajơw. Các chức sắc Bàlamôn mở cửa hướng đông, chức sắc Bàni mở cửa hướng tây. Chủ lễ chính của lễ này do thầy vỗ trống pasanưng (mưduôn) và ông bóng (ka - ing) thực hiện. Ông thầy vỗ đánh trống hát mời các vị thần núi (Po cơh), thần sông biển (Po riyak), thần chèo thuyền (Po tang ahuak), thần giữ rừng trầm ( Pogilau) và các nhân thần có công dẫn thủy nhập điền như Po Klongirai, Po Rame v.v... Lễ vật có: thịt dê, thịt gà, trứng, bánh, rượu. Lễ cúng diễn ra buổi chiều. Tối đến làm lễ chè xôi. Sau đó, thầy Cả sư và phó cả sư đọc hết 3 cuốn kinh lớn của Bàlamôn để cầu nguyện thần biển đến sáng.

Sáng hôm sau, người ta làm mâm Shali (hình nhân thế mạng làm bằng bột gạo) để làm lễ tế thần hỏa. Ông Ka-ing đốt bó cỏ tranh, coi bó cỏ tranh bên nào cháy ít, bên nào cháy nhiều để bói thời tiết. Năm nào mưa nhiều, năm nào hạn nhiều là do bó tranh cháy ít hay cháy nhiều. Để làm lễ thả hình nhân thế mạng (shali) ra biển, người ta thịt và cúng một con dê. Ở mỗi rạp lễ lại có các hình thức tế lễ riêng. Tại rạp On Mưduon và Mu rija: hành lễ theo các nghi lễ của lễ Rija yau (lễ múa ban đêm, cầu khấn cho năm mới những điều tốt lành (cầu thần Mã lai). Tại rạp On Mưduôn và On Kaing, lễ được thầy vỗ và bà bóng thực hiện như trong lễ Rija harei (lễ múa ban ngày). Ở rạp On kadhar và Mu Pajơw, thầy cò ke kéo đàn hát mời các vị thần về dự lễ và bà bóng múa cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi.

Lễ Palau sha khá phức tạp và diễn ra nhiều tiểu lễ vì đây là nghi lễ có tính chất tổng hợp của các nghi lễ vừa mang tín ngưỡng dân gian vừa mang tính chất tôn giáo. Trong đó có các tiểu lễ như Lễ rước gậy thần của tu sĩ Acar (Gay bhong), do nhóm tu sĩ Chăm Awal thực hiện. Đây là lễ rước gậy lễ rao giảng kinh của thánh Mohamet từ thánh được Hồi giáo đến cửa sông, cửa biển để cầu mưa. Lễ tế thần lửa (Cuh yang apui). Lễ này do tu sĩ Pashe thực hiện, mục đích là cúng các vị thần ở các đền tháp và cúng thần lửa (yang apui), cầu thần đem lại lửa làm sấm chớp, mây, mưa, cầu cho mưa thuận gió hòa. Theo quan niệm của người Chăm, đây là lễ khai thông đất trời, khai thông nguồn sông nguồn suối từ trên đầu nguồn đến cuối nguồn, âm dương giao hòa. Trong nghi lễ có nghi thức bà bóng có điệu múa phồn thực biểu thị tính giao cho âm dương hòa hợp, cầu cho sự sinh sôi nảy nở, mọi vật sinh trưởng, hoa lá đâm chồi nảy lộc, cây cối tốt tươi. Nghi lễ này trong cộng đồng người Chăm đã tồn tại từ bao đời nay, là biểu hiện sự ứng xử thân thiện với môi trường tự nhiên. Ngày xưa, cứ 3 năm một lần làm lễ Palau sah lớn, 1 năm làm một lễ nhỏ. Lễ nhỏ chỉ cúng 5 gà. Nhưng đã từ lâu, vì nhiều lí do, nghi lễ này không còn được duy trì.

Lễ “cầu mùa”, “tạ hỏa, cầu mưa” (Yor Yang)

Sau lễ Rija Nưgar vào tháng 1, lễ Palau Rija sah vào tháng 2, thì đến thượng tuần tháng 4 (Chăm lịch), cộng đồng Chăm lại tổ chức làm lễ tạ hỏa, cầu mưa. Lễ này được tổ chức vào 2 ngày: Chủ nhật và thứ hai.

Theo nông lịch cổ truyền Chăm, tháng 4 mới thực sự là mùa cày cấy. Theo kinh nghiệm dân gian về thiên văn thì lúc này các vì sao Tuarua, sao Cày, Thần nông đều đã xuất hiện và bắt đầu thời điểm chuyển từ mùa khô sang mùa mưa. Lễ này một mặt tế thần lửa, một mặt để cầu mưa vào đúng thời điểm để gieo trồng. Địa điểm tổ chức tại ba khu vực đền tháp của người Chăm Bàlamôn gồm Po Klongirai, tháp Po Rame và đền Po Inư Nưgar. Lễ Yor yang có mục đích tế thần lửa tại các tháp và cầu mưa xuống để sản xuất nông nghiệp. Chủ lễ là ông thầy cả (Po Dhia), ông thầy kéo đàn ka nhi (Kadhah), các chức sắc pà xế (Pashe), bà bóng (Mu Pajơw), người giữ đền tháp (Chamưnei).

Lễ cầu mưa còn có ý nghĩa là lễ hạ điền. Ông cai lệ đã chọn sẵn ruộng để làm lễ cày ruộng và ông cày ba đường tượng trưng. Theo quy định, phải dùng hai con trâu để cày, không được dùng bò. Lễ vật dâng cúng là những sản vật nông nghiệp. Ngày lễ “vào” gồm một cặp gà, bánh tét, bánh chà cung, chuối, trầu cau, nến sáp ong. Lễ vật trong ngày lễ “ra” tương tự như ngày lễ “vào” nhưng thay thế cặp gà bằng một con dê (vào gà ra ngạnh). Bà con Chăm cư trú theo khu vực đền, tháp đưa lễ vật lên tháp dâng cúng để tạ ơn thần thánh và cầu xin một mùa mới mưa thuận gió hòa, gặp nhiều may mắn và được mùa. Trong dịp này, dân chúng đội mâm lễ lên tháp cúng tạ, cúng mừng và cúng vay các vị thần linh.

Lễ Yor yang gồm các tiểu lể: lễ tẩy uế đền tháp, lễ trình, lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng và mặc y trang cho biểu tượng mukha linga trong đền tháp, lễ tế thần lửa tại tháp lửa.

1.1 Lễ “khai mương đắp đập”(taleh jamưng tăm)

Ngay sau khi làm xong lễ tế thần lửa, sáng ngày hôm sau, các chức sắc và cộng đồng Chăm lại tiến hành lễ khai mương đắp đập tại một địa điểm ở khu vực sông Đinh (ngày xưa thực hiện ở đập Lâm Cấm, đập Ô Căm). Lễ này gồm ông thầy cò ke (Kadhar), bà bóng (Mu Paijơw) và cai đập (Binưk) thực hiện. Lễ vật gồm 1 cặp gà, 5 mâm cơm canh, rượu, trứng, trầu cau. Các thầy chủ lễ hát thỉnh mời các vị thần có công trong sản xuất nông nghiệp Chăm như Po Inư Nưgar, Po Klongirai, Po Rame, Po Tang, Po Klong Kachait, On Pasa, Mu Caklinh v.v.... xin phép các vị thần cho đắp đập, ngăn sông đưa nước về đồng ruộng. Sau khi cúng tế, ông cai đập đem cọc đến làm phép đóng xuống bờ sông. Lễ kết thúc bằng lễ thức thả một con gà xuống dòng sông. Lễ này nhằm mục đích giáo dục, nhắc nhở dân làng trong thái độ ứng xử với nguồn nước, thường xuyên đắp đập, nạo vét kênh mương để khai thông cũng như ngăn chặn các dòng nước phục vụ cho cày cấy, trồng trọt.

1.2 Lễ “chặn nguồn nước”(Kap kraung halơw)

Nếu như lễ Palau rija sah và Yôr yang là những nghi lễ để cầu mưa, đưa nước về tưới cho ruộng đồng thì lễ chặn nguòn nước là lễ cũng nhằm ngăn các nguồn nước từ các dòng sông lớn làm cho ruộng đồng lũ lụt. Mục đích của lễ còn là tạ ơn trời đất, thần thánh đã cho mưa xuống để cấy cày nhưng mặt khác cũng xin ngưng mưa để không bị ngập úng cho lúa chín bước vào mùa thu hoạch.

Người Chăm quan niệm, nước là từ rễ cây sinh ra (lâm sinh thủy), rừng là nơi lưu giữ nước. Trên đầu nguồn nước luôn có thần đầu nguồn cai quản và hàng năm phải cúng tế vị thần này để điều hòa lượng nước, không gây lũ về tàn phá ruộng đồng. Địa điểm hành lễ chặn nguồn nước ở đầu nguồn các con sông lớn, với sự tham gia của cả 2 cộng đồng Chăm do các tu sĩ Po Acarr, On binưk (cai đập) thực hiện.

Thời gian hành lễ trong 2 ngày thứ năm và thứ sáu của thượng tuần trăng tháng 8 lịch Chăm. Lễ vật dâng cúng có gà, dê, cơm, canh, rượu, trứng, chuối, trầu cau v.v... Chủ lễ này gồm các chức sắc của 2 tôn giáo Chăm và ông cai đập (binưk), bà đơm cơm (mu puh) Bàni. Các nghi thức tương tự như hành lễ Palau sah. Lễ rước gậy rao giảng kinh của Mohamet ở trong thánh đường đến cửa sông do 9 tu sĩ Bàni mặc trang phục màu đen hành lễ. Các Po Acar đọc kinh Coran cầu nguyện thánh Ala xin đừng mưa nhiều, gây lũ lụt, ngập úng. Khi kết thúc lễ, các tu sĩ ở trần lội xuống sông làm lễ té nước.

Lễ tạ mộc(Paká Halau Kraung)

Lễ này được tổ chức vào hai ngày: thứ năm và thứ sáu hạ tuần trăng của tháng bảy lịch Chăm. Địa điểm tổ chức tại ba cửa rừng phía tây Ninh Thuận (đập Nha Trinh, đập Cà Tiêu, Suối Gạo). Chủ lễ là các chức sắc tôn giáo của hai đạo.

4.3 Tri thức bản địa của người Chăm thể hiện thái độ ứng xử thân thiện và tôn thờ nguồn nước

Với một vùng đất thiếu mưa, thừa nắng như ở cực Nam Trung bộ, từ xa xưa, người Chăm đã thấy tầm quan trọng của nguồn nước trong đời sống sản xuất nông nghiệp nói chung và nghề trồng lúa nước nói riêng. Bên cạnh việc xây dựng hệ thống thủy lợi dẫn thủy nhập điền có tính khoa học cao, người Chăm đã có thái độ ứng xử thân thiện, tôn thờ với môi trường tự nhiên nói chung và nguồn nước nói riêng. Với tín ngưỡng bản địa vạn vật hữu linh nằm chung trong cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, người Chăm quan niệm thế giới tự nhiên là thế giới của vô số các vị thần. Ngoài hệ thống nhân thần, người Chăm còn thần thánh hóa những nhân vật có thật trong lịch sử đã có công trong việc dẫn thủy nhập điền như Po Klongirai, Po Rame v.v... Quan niệm của người Chăm về việc ứng xử với môi trường nước được thể hiện qua hệ thống nghi lễ nông nghiệp khá hoàn chỉnh. Những nghi lễ ấy thể hiện thái độ ứng xử với môi trường nước từ khi cầu mưa xuống, khai mương cho nước vào đồng ruộng rồi đắp đập ngăn không cho nước không gây lũ lụt ngập úng. Những lễ diễn ra từ đầu nguồn nước, trên đồng ruộng và cuối nguồn nước, nơi nguồn nước đổ ra biển cả và lại bốc hơi lên làm mưa theo quy luật đất trời, vũ trụ và nhất quán thành một hệ thống. Những nghi lễ này cũng thể hiện quan niệm của Bàlamôn giáo, con người là thực thể được hình thành từ vũ trụ, con người là Atman trong Brahman bao la vô cùng vô tận. Thế nhưng, ngày nay, có một số nghi lễ đã không còn tồn tại. Việc có nên khôi phục lại hoàn chỉnh các nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng đối với nguồn nước là những việc chúng ta cần bàn và quan trọng hơn cả là sự tự nguyện đề xuất của hội đồng phong tục Chăm.

Trong những năm gần đây, với điều kiện khắc nghiệt về thời tiết, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng tỉnh Ninh Thuận đã tập trung xây dựng những công trình thủy lợi lớn với sự đầu tư từ hàng nghìn tỷ đồng để làm các hồ chứa nước như Hồ Tân Giang, Sông Sắc, Sông Trâu, Tân Mỹ, Sông Ông, sông Bươu v.v... từ đầu nguồn. Môi trường cũng như nguồn nước của vùng đất “sa thảo” Ninh Thuận nay đã được cải thiện đáng kể, sản xuất nông nghiệp của nông dân tỉnh Ninh Thuận ngày càng thuận lợi.

Tuy nhiên, bên cạnh những biện pháp cải tạo thiên nhiên, tín ngưỡng bản địa trong quan niệm ứng xử đối với các hiện tượng mưa nắng của tự nhiên vẫn giữ một phần quan trọng trong cộng đồng người Chăm. Tín ngưỡng là niềm tin tồn tại vĩnh hằng, người nông dân vẫn phải phụ thuộc vào điều kiện thời tiết. Sự tồn tại của các tôn giáo trong cộng đồng người Chăm Nam Trung bộ cũng chính là môi trường bảo tồn văn hóa Chăm truyền thống. Lễ hội là nơi gìn giữ và phát huy được những yếu tố văn hóa cổ truyền, trong đó có thái độ ứng xử vừa hòa mình thân thiện, vừa cải tạo và trân trọng, sùng bái thiên nhiên. Nguồn nước là cái đầu tiên của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước nên luôn được coi trọng. Việc có nên khôi phục lại các nghi lễ trong hệ thống nghi lễ đối với nguồn nước của người Chăm là vấn đề đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu và quản lý văn hóa, nhất là trong giai đoạn phát triển văn hóa dân tộc gắn với phát triển du lịch như hiện nay./.


. TS. GĐ Sở VHTT&DL tỉnh Ninh Thuận.

. Dẫn theo Momoki Shiro. Chăm pa chỉ là một thể chế biển, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 4, 1999.

. Phan Rang.

. Theo truyền thuyết, ngày xưa Po Klongirai mở cuộc thi đào mương, nam đào mương bên trái, nữ đào mương bên phải. Vì phía nam lo chòng ghẹo phía nữ nên bên nữ đào xong trước, mương bên nam đành phải bỏ dở dang, không dùng được. Vì vậy ngày nay người ta gọi mương đực và mương cái.

Sđd, tr 134.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.