Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 02/12/2011 21:40 (GMT+7)

Vai trò của pháp luật về đạo đức công chức Việt Nam

Trước khi trở thành công chức, người được tuyển dụng, bổ nhiệm là công chức đã tiếp thu được các quan niệm đạo đức công chức trong hoạt động công vụ từ nhiều "kênh" trong đời sống xã hội: từ những người thân trong gia đình, từ trường học và cả từ quá trình tự nhận thức của mỗi cá nhân trong cuộc sống. Chính vì vậy mà mỗi người có quan niệm, nhận thức về đạo đức công chức ở các mức độ rất khác nhau. Do đó, các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức công chức trong thực thi công vụ cần phải được những người được tuyển dụng, bổ nhiệm là công chức nhận thức và thừa nhận như các quy tắc có tính phổ biến, chính thống để thống nhất trong thực hiện. Điều này chỉ có thể thực hiện được thông qua thể chế hoá thành pháp luật về đạo đức công chức. Khi các quy tắc đạo đức công chức được lồng vào các quy phạm pháp luật thì các quy phạm đó sẽ có sức sống lâu bền, được thực hiện một cách tự giác, tự nguyện hơn. Mặt khác, do tác động của những yếu tố tiêu cực của đời sống xã hội nên không tránh khỏi việc luôn có sự xói mòn và xuống cấp đạo đức của một bộ phận công chức trong thực thi công vụ và trong đời sống xã hội. Để bảo đảm và phát huy các giá trị đạo đức công chức, góp phần xây dựng đội ngũ công chức có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, việc thể chế hoá các quy tắc đạo đức công chức thành pháp luật về đạo đức công chức là sự cần thiết khách quan.

Pháp luật về đạo đức công chức Việt Nam được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, hình thức, thủ tục luật định ghi nhận những chuẩn mực đạo đức công chức để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động công vụ và được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp riêng có của nhà nước, nhằm xây dựng đội ngũ công chức có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

Là một bộ phận của pháp luật về công chức, công vụ, pháp luật về đạo đức công chức có vai trò nói chung của pháp luật về công chức, công vụ; bên cạnh đó, vai trò của pháp luật về đạo đức công chức thể hiện:

Pháp luật về đạo đức công chức thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đạo đức công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước

Xuất phát từ quan điểm cán bộ là nhân tố quyết định thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng, "là cái gốc của mọi công việc", Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, đội ngũ công chức nói riêng có đủ đức, tài để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân gắn với giải quyết nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng. Quan điểm về xây dựng đạo đức công chức là nhất quán và có những bước phát triển qua từng giai đoạn cách mạng của đất nước.

Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã có những bước phát triển về quan điểm, chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đạo đức công chức là một nội dung hết sức cơ bản.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Vl đã nêu lên những yêu cầu chung đối với cán bộ cho thời kỳ đổi mới. Đó là những cán bộ có phẩm chất chính trị đã được thử thách, luôn luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, thông suốt và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, ham học hỏi, năng động, sáng tạo, có kiến thức quản lý kinh tế, xã hội, có tính tổ chức và kỷ luật cao. Đó là những cán bộ có đạo đức cách mạng và phong cách lãnh đạo tốt, trước hết là có ý thức tập thể, dân chủ đi đôi với tính quyết đoán, có ý thức trách nhiệm, có tác phong sâu sát thực tế, gần gũi quần chúng, quan tâm đến con người, gương mẫu trong lối sống, đoàn kết và động viên được nhiệt tình lao động của cán bộ và nhân dân.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá Vl đã có một số bổ sung quan trọng về đổi mới công tác cán bộ, trong đó có quan điểm về xây dựng đạo đức công chức như: xác định các tiêu chuẩn để lựa chọn, sử dụng cán bộ, đó là: có tinh thần đổi mới, có phẩm chất, có kiến thức và năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, có khả năng đoàn kết, quy tụ cán bộ. Quan điểm về phẩm chất và năng lực của cán bộ và về đánh giá cán bộ đã có bước tiến mới khi khảng định phải "thống nhất tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực cán bộ, về đánh giá cán bộ trong công cuộc đổi mới". Và trên cơ sở quan điểm "không có tiêu chuẩn phẩm chất và năng lực chung chung", đã đề ra chủ trương cụ thể hoá tiêu chuẩn cán bộ cho từng chức danh.

Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa VIII tiếp tục khẳng định: xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định chất lượng của bộ máy nhà nước.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định những yêu cầu đối với công tác xây dựng đội ngũ công chức, trong đó nhấn mạnh yêu cầu về đạo đức công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay: "xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác; có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.

Hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, việc thể chế hóa các quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ công chức, xây dựng đạo đức công chức đã được chú trọng đẩy mạnh thực hiện, thể hiện ở việc nhiều văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các nội dung về tiêu chuẩn, đạo đức công chức đã được ban hành như Hiến pháp; Luật cán bộ, công chức; Luật phòng, chống tham nhũng; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... và nhiều văn bản dưới luật khác. Đó chính là những minh chứng cụ thể về vai trò của pháp luật trong mối quan hệ với chính trị, với đường lối lãnh đạo của Đảng. Có thể thấy, pháp luật có vai trò không thể thiếu trong việc chuyển tải những quan điểm, chủ trương của Đảng thành các quy định pháp luật có tính phổ quát cao, phạm vi điều chỉnh bao gồm tất cả các đối tượng cần điều chỉnh.

Pháp luật về đạo đức công chức ghi nhận, bảo vệ các giá trị đạo đức xã hội nói chung, các giá trị đạo đức công chức nói riêng

Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, pháp luật luôn đóng vai trò bảo vệ các giá trị đạo đức chân chính, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân. Do đó pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nền đạo đức của xã hội, là phương tiện không thể thiếu cho sự tồn tại bình thường của xã hội nói chung và nền đạo đức nói riêng. Bởi lẽ, pháp luật bao giờ cũng là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, không thể buông lỏng pháp luật nếu việc này chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội. Với ý nghĩa như vậy, pháp luật về đạo đức công chức đóng vai trò ghi nhận và bảo vệ các giá trị đạo đức xã hội nói chung, các giá trị đạo đức công chức nói riêng.

Ở Việt Nam , cùng với sự ra đời của nhà nước kiểu mới là sự hình thành đội ngũ công chức để thực hiện công vụ do nhà nước giao phó. Vì vậy chuẩn mực đạo đức công chức của chế độ xã hội mới cần thiết phải được xác lập và thực hiện. Ngay sau ngày tuyên bố độc lập ngày 5/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ký ban hành Sắc lệnh số 18/SL và Sắc lệnh số 32/SL bãi bỏ các ngạch quan hành chính tư pháp và học quan của chế độ cũ.

Tiếp theo đó, ngày 3/10/1945 , Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 41/SL bãi bỏ tất cả các công sở, các cơ quan thuộc Phủ toàn quyền Đông Dương đã thiết lập trong cả nước, chuyển tài sân và nhân viên tòng sự của các cơ quan này sang các bộ của Chính phủ lâm thời Việt Nam. Trong hoạt động công vụ của công chức, để đảm bảo tính thống nhất trong hành vi, thái độ, cách ứng xử của đội ngũ công chức, những giá trị và chuẩn mực đạo đức công chức được pháp luật quy định góp phần xây dựng đội ngũ công chức trong giai đoạn đầu của chính quyền cách mạng còn non trẻ.

Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, thực hiện cải cách hành chính đang có những bước chuyển biến lớn thì quan hệ đạo đức công chức trong hoạt động công vụ cần phải được bổ sung những chuẩn mực, những giá trị mới. Ngay cả việc đánh giá đạo đức công chức cũng cần phải dựa trên những các tiêu chí mới trên cơ sở các quy định của pháp luật.

Pháp luật về đạo đức công chức tạo dựng khung pháp lý điều chỉnh hoạt động công vụ của công chức

Pháp luật về đạo đức công chức là bộ phận cấu thành pháp luật công chức, công vụ tạo thành khung pháp lý điều chỉnh hoạt động công vụ của công chức thể hiện:

Các quy định mang tính nguyên tắc về đạo đức công chức phải: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; các quy phạm pháp luật quy định cụ thể những chuẩn mực về đạo đức công chức, văn hóa giao tiếp trong công sở và giao tiếp với nhân dân; các quy phạm dưới dạng nghĩa vụ về đạo đức công chức quy định những việc công chức không được làm... Các quy định pháp luật về đạo đức công chức nhằm xây dựng một nền công vụ phục vụ nhân dân, góp phần vào việc xây dựng văn hóa công vụ, quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ .Các quy định này tạo cơ sở pháp lý để xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới; phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, công chức và thể hiện được chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn mới.

Như vậy có thể thấy pháp luật về đạo đức công chức là công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần vào thực hiện quá trình đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân theo nguyên tắc cản bộ, công chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép.

Pháp luật về đạo đức công chức là cơ sở pháp lý đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về đạo đức công chức

Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, bên cạnh những mặt tích cực, luôn phát sinh và tiềm ẩn những tiêu cực, trong đó có những vi phạm pháp luật về đạo đức công chức. Vì vậy, bên cạnh việc ghi nhận, bảo vệ các giá trị đạo đức công chức, tạo khung pháp lý điều chỉnh hoạt động công vụ, pháp luật về đạo đức công chức còn đóng vai trò là cơ sở pháp lý đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật về đạo đức công chức.

Trong thực tế hoạt động của bộ máy nhà nước, không thể tránh khỏi có sự xuống cấp, xói mòn đạo đức, sự tha hoá của một bộ phận công chức trong thực thi công vụ và trong đời sống xã hội. Những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động công vụ của công chức như: quan liêu, lãng phí của công, lạm dụng chức vụ, quyền hạn để thu lợi riêng, cơ hội, kém ýthức kỷ luật, phát ngôn và làm việc tuỳ tiện và đặc biệt nghiêm trọng là tham nhũng... những vi phạm chỉ có trong bộ máy công quyền. Để phòng, chống các vi phạm, tiêu cực của công chức trong thực thi công vụ có thể thấy chỉ sử dụng các quy tắc đạo đức sẽ không đủ, mà phải dựa vào pháp luật, nhờ vào sức mạnh có tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ nói trên bằng cách cấm việc thực hiện các hành vi đặt ra các chế tài đủ mạnh để trừng phạt đối với những công chức đã thực hiện những hành vi bị cấm đó và buộc phải thực hiện các hành vi luật định.

Việt Nam là một nước đang phát triển. Quá trình vận động, phát triển sẽ làm phát sinh nhiều vấn đề về kinh tế - xã hội cần phải giải quyết như đói nghèo, thiên tai v.v...Trong điều kiện trình độ dân trí còn thấp, cùng với những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật, tình trạng vi phạm kỷ cương xã hội, coi thường pháp luật, tệ nạn tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật có những diễn biến phức tạp. Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái về đạo đức, đặc biệt là ở một bộ phận công chức đang là nỗi bất bình của nhân dân. Trong bối cảnh như vậy, luật pháp cần phải tỏ rõ sức mạnh của mình để lập lại trật tự, kỷ cương. Bởi lẽ, nếu đạo lý không đủ mạnh để thuyết phục thì pháp lý phải ra tay; nếu dư luận xã hội chưa đủ độ để lên án thì luật pháp phải kết án. Những quy định pháp luật về đạo đức công chức với các biện pháp chế tài đủ mạnh xử lý hành vi vi phạm pháp luật về đạo đức công chức góp phần không nhỏ trong việc tạo lập trật tự, kỷ cương tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Để phát huy vai trò và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đạo đức công chức ở nước ta hiện nay, cần chú ý những vấn đề sau:

Về quan điểm hoàn thiện pháp luật về đạo đức công chức:

Quán triệt và thực hiện quan điểm của Đảng ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về đạo đức công chức nói riêng. Cụ thể, Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020 đã xác định: "Ban hành Luật về công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức".

Nội dung pháp luậtvề đạođức côngchức:

Bên cạnh việc kế thừa nội dung các quy định của pháp luật về đạo đức công chức qua các thời kỳ phát triển đất nước, những vấn đề đặt ra để tiếp tục hoàn thiện nội dung pháp luật về đạo đức công chức là:

Pháp luật về đạo đức công chức với nội dung là các chuẩn mực đạo đức, điều chỉnh hành vi công chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội trong hoạt động công vụ, phục vụ hoạt động công vụ. Do đó, cần có các quy định cụ thể mang tính nguyên tắc về chuẩn mực đạo đức công chức như: công chức phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; các quy định ngăn cấm không được vi phạm về đạo đức công chức; các quy định nghĩa vụ phải được thực hiện về đạo đức công chức; trách nhiệm pháp lý đối với công chức do vi phạm đạo đức công chức; khen thưởng, tôn vinh đối với công chức. Các quy định pháp luật trên phải tạo thành một hệ thống thống nhất, dễ thực hiện và bao quát được toàn bộ các vấn đề về đạo đức công chức.

Một vấn đề nổi lên trong quá trình hình thành và phát triển pháp luật về đạo đức công chức của nước ta là chưa có quy định cụ thể coi đạo đức công chức là đạo đức nghề nghiệp. Hoạt động công vụ cần được coi là hoạt động nghề nghiệp đặc thù. Các quan niệm về công vụ ở nước ta hiện nay coi công vụ là một dạng lao động xã hội do công chức thực hiện, bao gồm: hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước để quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội và hoạt động của công chức trong các tổ chức sự nghiệp (dịch vụ công) của nhà nước, được nhà nước ủy quyền mà không vì mục đích lợi nhuận. Với ý nghĩa như vậy công vụ là hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội. Bởi vậy, các chuẩn mực đạo đức công chức là một dạng đạo đức nghề nghiệp - đạo đức công vụ. Các chuẩn mực đạo đức công chức bị chi phối bởi các đặc điểm của hoạt động công vụ. Pháp luật về đạo đức công chức cần được xây dựng trên các đặc điểm và yêu cầu của hoạt động công vụ.

Về hình thức:

Cần có văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao là Luật Đạo đức công chức (hoặc Luật Đạo đức công vụ) để quy định các chuẩn mực đạo đức công chức chung. Trên cơ sở đó, xây dựng những quy định pháp lý cụ thể về chuẩn mực đạo đức công chức trong từng lĩnh vực cụ thể như hải quan, kiểm toán nhà nước, thanh tra, tiếp dân và giải quyết các công việc với dân... góp phần xây dựng đội ngũ công chức có đủ năng lực và phẩm chất theo yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay.

Về tổ chức thực hiện:

Pháp luật về đạo đức công chức luôn là vấn đề được quan tâm trong xây dựng và thực hiện pháp luật về công chức, công vụ. Tuy nhiên, nước ta chưa có quy định cụ thể về cơ quan chuyên trách về đạo đức công chức. Từ kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới trong tổ chức thực hiện pháp luật về đạo đức công chức cho thấy, Việt Nam có thể tham khảo, nghiên cứu việc thành lập cơ quan chuyên trách về đạo đức công chức nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao đạo đức công chức nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước ta.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.