Tướng quân Lưu Nhân Chú
Khi Lê Lợi chuẩn bị dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lưu Nhân Chú cùng cha là Lưu Trung đã hăng hái đến hưởng ứng. Năm 1416, Lưu Nhân Chú là một trong số 19 người tham dự Hội thề Lũng Nhai,là thành viên của Bộ chỉ huy Lam Sơn, chức vụ cụ thể lúc bấy giờ là Phó Chỉ huy vệ kỵ binh trong đội Thiết Đột. Ông đã liên tục có nhiều cống hiến lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi quân Minh, giành độc lập cho Tổ quốc.
Tham gia chỉ huy trận Khả Lưu - Bồ Ải (1424)
Tháng 10 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn đã táo bạo đánh vào Nghệ An để “ tìm đất đứng chân”. Cuộc tấn công này đã khiến cho quân Minh rất bối rối. Tướng giặc là Trần Chí và Phương Chính đã lập tức cho quân đuổi theo. Chúng dự kiến sẽ bất ngờ đánh vào Trà Lân, tiêu diệt bộ phận quan trọng nhất của lực lượng Lam Sơn tại đây. Nhưng mưu toan đánh bất ngờ của chúng đã sụp đổ bởi trước đó, Lê Lợi đã cho các tướng quân tới chiếm lĩnh Khả Lưu là “vùng đất hiểm”, nằm án ngữ ngang dọc đường tiến vào Trà Lân. Bộ chỉ huy Lam Sơn đã khôn khéo tổ chức thành công hai trận địa mai phục. Trận thứ nhất khiến cho Trần Chí và Phương Chính phải vội vã rút quân, để lại “hàng vạn xác chết”. Trận thứ hai, Trần Chí và Phương Chính đại bại, phải bỏ chạy về tận Tây Đô. Trận này, “ta chém được nhiều không kể xiết, chiến thuyền của chúng ngổn ngang, xác chết nghẽn cả nước, khí giới vất như núi, như gò. Trong trận này, ta bắt sống được tướng giặc là Chu Kiệt và giết chết tướng giặc là Hoàng Thành, bắt sống được hơn một vạn quân Minh”. Chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn trong cả hai trận mai phục này là 11 vị tướng khác nhau. Trong số 11 vị tướng đó, có Lưu Nhân Chú. Lê Quý Đôn đánh giá về công lao của Lưu Nhân Chú trong trận Khả Lưu - Bồ Ải như sau:
“ Năm Giáp Thìn (1424), trong trận đánh ở Khả Lưu, ông hăng hái xông lên phía trước để hãm trận giặc, góp phần thu toàn thắng, tên ông nổi bật lên cả một thời” (1).
Vây hãm thành Tây Đô (1425)
Mùa hè năm 1425, sau khi đã giải phóng vùng đồng bằng Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hoá, Lê Lợi - Nguyễn Trãi liền cử một loạt tướng lĩnh cầm quân tiến ra giải phóng vùng đồng bằng Thanh Hoá. Hai vị tướng đi tiên phong trong trận tấn công là Lê Sát và Đinh Lễ. Hai vị tướng quân này đem quân đi đánh Diễn Châu và sau khi thắng lớn liền cho quân tiến thẳng ra Thanh Hoá. Nghe tin này, Lê Lợi và Bộ Chỉ huy Lam Sơn liền cử tiếp các tướng Lý Thiện, Lưu Nhân Chú và Bùi Bị đem 2000 quân tinh nhuệ cùng 3 thớt voi theo đường tắt tiến gấp ra Thanh Hoá, để tiếp ứng. Chỉ trong vòng một thời gian rất ngắn, nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng toàn bộ vùng đồng bằng Thanh Hoá rộng lớn và buộc lực lượng quân Minh ở đây phải rút vào cố thủ trong thành Tây Đô. Bấy giờ, chỉ huy quân Minh ở Thanh Hoá là các tướng Đả Trung, La Thông và viên nguỵ quan tay sai là Lương Nhữ Hốt. Thành Tây Đô mà chúng cố thủ là một trong số thành lớn và kiên cố lúc bấy giờ. Thành có hai lớp: thành ngoại,chu vi 18 km, đắp bằng đất. Lớp trong gọi là thành nội, chu vi khoảng 3 km, xây đá tảng cỡ lớn, rất kiên cố. Thành cao có lớp hào sâu bao bọc xung quanh.
Sau khi cùng các tướng ồ ạt tấn công và giải phóng được vùng đồng bằng Thanh Hoá, Lưu Nhân Chú ngày đêm cho quân vây hãm ráo riết thành Tây Đô. Những cuộc tập kích liều lĩnh của quân Minh hòng phá thế bị bao vây đều bị Lưu Nhân Chú và các tướng của Lam Sơn đập tan. Nhờ những công lao này, cuối năm 1425, Lưu Nhân Chú được phong tới tước hầu.
Tung hoành ở khu vực hạ lưu sông Hồng (1426)
Sau khi cầm quân tham gia các trận đánh giải phóng Thanh Hoá và vây hãm thành Tây Đô, Lưu Nhân Chú lại được Lê Lợi và Bộ Chỉ huy Lam Sơn tin cậy giao nhiệm vụ mới, đó là: cùng với các tướng Bùi Bị, Lê Trương và Lê Ninh, chỉ huy một trong số ba đạo quân của Lam Sơn, tấn công ra vùng còn vị quân Minh chiếm đóng để uy hiếp thành Đông Quan. Đạo quân này lúc đầu chỉ có 2000 quân và một thớt voi, sau Lê Lợi phái thêm 2000 quân và một thớt voi nữa, giao cho các tướng Lê Bồi và Lê Vị Canh chỉ huy, gấp rút tiến ra để tiếp ứng. Như vậy, đạo quân thứ hai chính có lực lượng hùng hậu nhất. Đạo quân này có hai nhiệm vụ quan trọng. Một là ráo riết hoạt động ở vùng hạ lưu sông Hồng và tham gia uy hiếp thành Đông Quan. Hai là sẵn sàng chặn đánh bọn giặc rất có thể sẽ bỏ thành Nghệ An, Diễn Châu và Tây Đô để chạy ra Bắc.
Sự có mặt của Lưu Nhân Chú và các tướng Lam sơn cùng với hơn 4000 quân sĩ khiến cho giặc Minh thực sự bối rối. Chúng ứng phó một cách lúng túng và kém hiệu quả. Đấy chính là cơ hội thuận lợi để đạo quân thứ nhất có thể tổ chức thành công những trận đánh lớn, buộc viên tướng đi cứu viện của giặc là Vương Thông phải rút hết lực lượng về cố thủ trong thành Đông Quan. Tương quan thế và lực giữa đôi bên thay đổi nhanh chóng theo xu hướng ngày càng có lợi cho Lam Sơn. Nhờ công lao này, tháng 3 năm 1427, Lưu Nhân Chú được phong là Hành Quân Đô đốc Tổng quản, Nhập Nội Đại Tư Mã, quản lĩnh cả bốn vệ là Tiền, Hậu, Tả, Hữu. Ba tháng sau, ông lại được thăng là Tư Không. Sử cũ chép:
Vua dặn ông rằng: “Chức tước đã cao thì sớm hôm phải chăm chỉ, không nên trễ nải, biếng nhác, khiến uổng phí cả công lao;
Nói rồi, liền ban cho ông một cái tán”.
Tướng lập công xuất sắc trong trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng – Xương Giang (1427)
Cuối năm 1427, Lê Lợi và Bộ Chỉ huy Lam Sơn quyết định đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng với quân Minh và mục tiêu quan trọng nhất là đạo viện binh 10 vạn do Liễu Thăng chỉ huy, tiến vào nước ta qua ngả Chi Lăng (Lạng Sơn). Tướng Lưu Nhân Chú được lệnh cùng với một số tướng lĩnh khác, đem một vạn binh và năm thớt voi chiến lên ải Chi Lăng. Tại đây, nhờ khéo kết hợp với lực lượng của Trần Lựu, Lưu Nhân Chú và các tướng đã dồn Liễu Thăng vào ổ mai phục ở núi Mã Yên và giết chết viên chủ tướng hung hăng này cùng khoảng một vạn quân giặc. Sự kiện này diễn ra ngày 10 – 10 – 1427.
Tuy bị tổn thất rất nặng nền nhưng ỷ có số quân còn rất đông, viên Phó Tổng binh, tước Bảo Định Bá là Lương Minh, thay cho Liễu Thăng, chỉ huy lực lượng quân Minh còn lại tiến về phía Đông Quan để cứu Vương Thông.
Ngày 15 – 10 – 1427, ngót 9 vạn quân Minh đã lọt ổ mai phục thứ hai của Lam Sơn tại Cần Trạm (Lạng Sơn). Lưu Nhân Chú là một trong các tướng chỉ huy trận đánh thứ hai này. Chỉ chưa đầy một ngày, nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt gần hai vạn quân Minh. Tướng cao cấp nhất của giặc là Lương Minh vừa mới lên nắm quyền đã bị chém đầu. Sau trận thắng này, Lưu Nhân Chú cùng các tướng khác gấp rút kéo quân về Xương Giang để kịp thời chuẩn bị cho cuộc tập kích mới. Sau trận thua ở Cần Trạm, về phía giặc, Đô đốc Thôi Tụ, cùng Binh Bộ Thượng thư là Lý Khánh và Công bộ Thượng thư là Hoàng Phúc lên nắm quyền chỉ huy.
Chúng vội vã hành quân với hy vọng là đến Xương Giang sẽ bám vào thành mà tính kế mới. Nhưng, khi chúng đến nơi thì thành Xương Gian đã bị san bằng trước đó mười ngày. Thôi Tụ buộc phải cho quân hạ trại ở ngay giữa cánh đồng Xương Giang.
Khi đến Xương Giang, bộ chỉ huy cao cấp của giặc chỉ còn có Đô Đốc Thôi Tụ và Công bộ Thượng thư Hoàng Phúc mà thôi. Trước đó, vào ngày 15 – 10 – 1427, Binh bộ Thượng thư Lý Khánh, vì hoảng sợ, đã thắt cổ tự tử ở Phố Cát (Lạng Sơn). Lực lượng quân Minh ở Xương Giang lúc bấy giờ chỉ còn khoảng 7 vạn. Chúng bị quân Lam Sơn bao vây khắp cả bốn mặt và liên tiếp gửi thư dụ hàng.
Ngày 3 – 11 – 1427, cuộc tập kích có quy mô lớn chưa từng thấy của Nghĩa quân Lam Sơn vào quân Minh bắt đầu. Lưu Nhân Chú có vinh dự tham gia chỉ huy cuộc tập kích đó.
Quân ta cho voi chiến xông trận và cùng nhau hô lớn, ai hàng thì sống, ai chống thì chết. Thế trận quân giặc rối loạn, bị giết hoặc bị đuổi chạy dài. Toàn quân tan vỡ. Tất cả tướng lĩnh chỉ huy của quân Minh tại đây, từ Đô Đốc Thôi Tụ và Thượng thư Hoàng Phúc trở xuống đều bị bắt sống, hoặc bị giết. Toàn bộ quân Minh bị giết và bị bắt sống, chỉ một tên duy nhất sống sót và chạy về được Trung Quốc mà thôi.
Thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng – Xương Giang là thắng lợi chung của Bộ chỉ huy và toàn thể nghĩa quân Lam Sơn, nhưng trong đó, đóng góp của Lưu Nhân Chú là rất đáng kể. Ông vinh dự đã tham gia chỉ huy hầu như tất cả các cuộc tập kích suốt từ Chi Lăng đến Xương Giang, và trận nào ông cũng lập công xuất sắc.
Làm con tin giữa sào huyệt giặc (1427)
Sau trận đại thắng ở Chi Lăng – Xương Gian, tư thế của Lam Sơn là tư thế hiên ngang ở trên đầu thù. Với tư thế đó, Lam Sơn hoàn toàn có thể tiêu diệt toàn bộ lực lượng của Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan bằng một trận đánh chớp nhoáng. Nhưng Lam Sơn đã không làm vậy. Trước sau như một, Lê Lợi - Nguyễn Trãi và đa số các vị tướng lĩnh trong Bộ Chỉ huy Lam Sơn vẫn kiên trì thực hiện chủ trương “thương lượng”, nhằm buộc quân Minh phải rút khỏi nước ta. Nói theo cách nói của Nguyễn Trãi là:
“ Chỉ cần vẹn đất,
Cốt sao an ninh” (2).
Để thuyết phục kẻ thù, Lê Lợi và Bộ Chỉ huy Lam Sơn đã đồng ý trao đổi con tin với Vương Thông. Giặc cho hai viên tướng khét tiếng của chúng là Sơn Thọ và Mã Kỳ sang đại bản doanh của Lê Lợi làm con tin. Ngược lại, Lê Lợi cũng cho tướng quân Lưu Nhân Chú cùng với con trai của Lê Lợi là Tư Tề (lúc này đang ở hàm Đại Tư Đồ) vào Đông Quan làm con tin.
Vào Đông Quan tức là vào tận sào huyệt nguy hiểm nhất, giáp mặt với những viên tướng tàn bạo và xảo quyệt nhất của kẻ thù. Vào Đông Quan, ngoài dũng khí của một vị tướng trực tiếp cầm quân xông pha trận mạc, điều mới mẻ mà Lưu Nhân Chú phải có là bản lĩnh và năng lực ứng đối với kẻ thù. Lúc này, một sơ xuất nhỏ cũng có thể dẫn tới những tác hại khó lường trước được. Và, một lần nữa, Lưu Nhân Chú hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Do những công lao nói trên, năm 1428 Lưu Nhân Chú được phong là Suy Trung Tán Trị, Hiệp Mưu Dương Vũ Công Thần, Nhập Nội Kiểm Hiệu Bình Quân Quốc Trọng sự. Tháng 5 năm 1429, triều Lê dựng biển khắc tên 93 vị Khai Quốc Công Thần, tên của Lưu Nhân Chú đứng ở hàng thứ 5. Và đến năm 1431, ông được phong là Nhập Nội Tư Khấu.
Thời đánh Nam dẹp Bắc, xông pha trận mạc trăm trận có thừa, binh hùng tướng mạnh của giặc chẳng thể làm cho Lưu Nhân Chú ngã gục, nhưng thời bình trị, lại bị bạn đồng liêu, người từng vào sinh ra tử với mình hãm hại.
Sử cũ chép rằng:
“Năm Thuận Thiên thứ sáu (1433), vua Lê Thái Tổ mất, vua Lê Thái Tông còn nhỏ, quan Đại Tư Đồ Lê Sát ghen ghét ông, ngầm bỏ thuốc độc để giết hại ông”.
Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), vua Lê Thánh Tông truy tặng Lưu Nhân Chú hàm Thái Phó, tước Vinh Quốc Công.
Đại Việt Thông sử ( Chưthần truyện)nhận xét về Lưu Nhân Chú:
“ Tài năng lớn như cây tùng cây bách
Đức độ sáng như ngọc dư, ngọc phan.
Thương nước nhà trong cơn hoạn nạn:
Vì nghiệp vua không nỡ ẩn thân.
Chốn Linh Sơn đói khổ mấy tuần, người toàn tâm chu tất;
Xứ Ai Lao vất vả muôn phần, tấm thân người chẳng tiếc.
Cứu khổ phò suy: giành lại cơ đồ, chẳng sá cháo rau, cơm hẩm;
Diệt trừ bạo loạn: rửa sạch đất trời, bảo quản gương vàng ngựa sắt”.
Lời chế văn của vua Lê Thái Tổ.
Chú thích
1. Đại Việt thông sử ( Chưthần truyện).
2. Nguyễn Trãi: Chí Linh sơn phát.