Truyền thuyết Mai An Tiêm, quả dưa hấu từ góc nhìn xã hội học lịch sử
Câu chuyện Mai An Tiêm và sự tích Quả dưa hấu, bên cạnh cái mẫu số chung là truyền thuyết, là truyện dân gian như ngàn vạn câu chuyện dân gian và sự tích khác, nó còn có một đặc trưng rất riêng, do nó gắn với mảnh đất, ngọn núi, tên người và một dòng họ Mai có thực. Mảnh đất Nga Sơn được biểu tượng như thánh địa của dòng họ này. Nó vừa là truyền thuyết, vừa là dã sử, lại cũng vừa là hình bóng của lịch sử. Từ chính truyền thuyết, người xưa đã cung cấp cho chúng ta những cứ liệu tham chiếu về một thời đại rất đáng quan tâm: Thời đại Hồng Bàng - Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng.
Núi Mai An Tiêm
Trước hết khẳng định dưa hấu có ở nhiều nơi trên thế giới, kể cả châu Âu, châu Phi, châu Mĩ. Đây là loại quả được sản xuất và sử dụng rất sớm của loài người. Trong truyền thuyết cũng không khẳng định chỉ từ khi Mai An Tiêm phát hiện ra giống quả quý này thì nó mới được đưa vào đời sống và con người mới biết đến dưa hấu. Như vậy dưa hấu vùng Nga Sơn của Mai An Tiêm chỉ là một nơi có xuất xứ sớm, và đặc biệt ở chỗ nó gắn với truyền thuyết về cuộc đời chủ nhân của nó. Quả dưa ở đây được coi như một nguyên nhân, một giá trị liên quan đến việc làm thay đổi số phận một con người tiêu biểu trong hoàn cảnh bi thương và nhậy cảm.
Nếu ai chưa mục kích sở thị núi Mai An Tiêm mà chỉ được nghe qua truyền thuyết thì sẽ có một hình dung, một ý niệm khác về nó. Có thể nghĩ rằng đây là một quả núi rộng lớn, đồ sộ, cây cối râm rạp, có nước suối trong vắt chảy qua, hoặc chí ít cũng phải có những giếng nước ngọt để sinh sống, chăn nuôi và canh tác. Nhưng thực sự không phải như vậy. Núi Mai An Tiêm - Cái hòn núi duy nhất mang tên Mai An Tiêm, nằm trên vùng giáp ranh giữa hai xã Nga An và Nga Phú - chỉ là một hòn núi trọc rất nhỏ, với diện tích khoảng vài ba sào Trung Bộ, có độ cao vài chục mét.
Quả núi này xuất hiện cùng niên đại tạo sơn của hệ Tam Điệp hùng vĩ, vì có cùng một loại trầm tích khoáng thạch, nhưng nằm biệt lập về phía nam khoảng ba bốn trăm mét. Xem xét kỹ không ai có thể nghĩ rằng đây là nơi mà Vua Hùng đã đem đứa con trai và gia quyến của nó vượt biển cả sóng to gió lớn đến để đầy ải. Thời gian tuy có phôi pha, nhiều cái thay đổi, nhưng chí ít những dấu tích về một hoang đảo có những điều kiện cho sự sống, cho lao động và sản xuất vẫn phải còn vương vất lại. Ngọn núi hoàn toàn không có những tiêu chí đó.
Mai An Tiêm lấy đâu đất đai để trồng trọt, canh tác, chăn nuôi trên một không gian ấy.
Vậy phải chăng núi Mai An Tiêm chỉ là một biểu trưng, còn nơi mà Mai An Tiêm và gia quyến ông sống và lao động trong những ngày bị lưu đầy là cả một vùng rộng lớn quanh đó? Nếu thế thì vùng rộng lớn ấy là gồm những vùng đất nào? Đây cũng là điều lí thú cần tìm hiểu.
Dòng họ Mai ở Nga Sơn
Trong tất cả các dòng họ đang hiện hữu ở Việt Nam thì có lẽ dòng họ Mai có một niềm tự hào lớn nhất, vì theo truyền thuyết, đây là dòng họ có nguồn gốc từ Vua Hùng. Mai An Tiêm là con trai vua Hùng. Các dòng họ lớn như Ngô, Đinh, Lí, Trần, Lê, Nguyễn... đồ sộ hoành tráng gắn với lịch sử dựng nước oai hùng của dân tộc, với những tài năng trác tuyệt là vậy mà cũng chưa có được minh chứng là trực hệ của vua Hùng, dù chỉ là truyền thuyết. Thậm chí còn chưa biết xuất xứ chính xác từ đâu và khi nào.
Ở Nga Sơn, dòng họ Mai có số lượng đông, chiếm tỉ lệ cao nhất trong các dòng họ hiện hữu trong huyện. Theo truyền tụng của người dân bản xứ thì trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 39 sau công nguyên, có nữ tướng Mai Hoa quê làng Trị Nội (tức Nga Thiện ngày nay) đã chỉ huy đánh trận rất giỏi, được nhân dân trong vùng tôn kính gần ngang với nữ tướng Lê Chân ở Hải phòng. Dù đây cũng chỉ là truyền thuyết, nhưng chí ít đã để lộ ra rằng từ buổi khai sơn lập địa, dòng họ Mai đã phát tiết anh hùng, toả ánh hào quang. Mai Thúc Loan - Mai Hắc Đế, vị anh hùng dân tộc cũng mang dòng họ Mai của mẹ, mẹ là ai không rõ, nhưng đó là người đã sinh hạ và nuôi dưỡng một bậc quân vương.
Nhìn về tổng thể và xuyên suốt chiều dài lịch sử, người dân họ Mai ở Nga Sơn là lực lượng lao động nông nghiệp bản địa chủ đạo, gắn chặt với đồng ruộng, thuỷ chung với mọi bước thăng trầm của lịch sử quê nhà. Nhờ những thay đổi của xã hội, thay đổi quyền sở hữu ruộng đất, họ đã vươn lên. Điều đặc biệt hơn so với những người ở dòng họ khác, những người có họ Mai dù ở phương trời nào trên đất nước, dù đã định cư ở đâu rất lâu rồi đều có quyền tự hào và truy nguyên về nơi xuất phát của dòng họ mình, đó là Nga Sơn gắn vơí sự tích Mai An Tiêm và quả dưa hấu, dù sự thực lịch sử có thể không hoàn toàn như vậy.
Họ Mai tập trung đông nhất là ở các xã Nga Giáp, Nga Yên, Nga Mỹ, Nga Văn, và đặc biệt là Nga Trường và Nga Thiện. Các xã này lại không nằm sát núi Mai An Tiêm mà phải cách đó năm sáu cây số. Trong khi các làng nằm sát núi một vài trăm mét lại không có nhiều họ Mai, hoặc có nhưng không đáng kể.
Nhìn về địa bàn cư trú của cư dân Nga sơn nói chung và cư dân dòng họ Mai nói riêng phải căn cứ trên yếu tố địa lí sinh thái và địa lí tự nhiên. Nga Sơn được cấu tạo từ ba hệ trầm tích cơ bản:
Trầm tích lục địa: tức là vùng trầm tích đã có sẵn từ buổi khai sơn lập địa mà con người có thể đến cư trú.
Trầm tích đại dương: xuất hiện trong quá trình biển lùi, tạo ra vùng đất ở và canh tác mới muộn hơn.
Trầm tích phù sa: được tạo ra do quá trình bồi đắp của phù sa Sông Hồng và Sông Thái Bình khoảng bốn năm trăm năm trở lại đây. Từ kết quả của các công trình trị thuỷ diễn ra dưới các thời Lí - Trần - Lê, hệ thống đê điều sông Hồng và sông Thái Bình vững chắc, tạo cho dòng chảy đưa thẳng phù sa xuống cửa biển tạo nên các vùng đất bồi khổng lồ này.
Vùng đất thuộc trầm tích phù sa muộn mằn những thế kỉ gần đây của Nga Sơn cùng thời với vùng phù sa của Tiền Hải - Thái bình và Kim Sơn - Ninh Bình. Do hai vùng đất trên ở gần cửa sông nên lượng phù sa lớn, diện tích phù sa rộng. Năm 1829, đại danh điền Nguyễn Công Trứ cho dân khai hoang lập ấp. Ông đã làm bản tâu trình và được vua Minh Mạng kí sắc lệnh thành lập hai huyện nói trên cho hai tỉnh. Nga Sơn ở đuôi dải phù sa, diện tích bồi đắp không nhiều, khoảng mấy chục cây số vuông. Cư dân phía bắc xuống khai khẩn thành các xã Nga Thái, Nga Phú, Nga Điền, Nga Liên, Nga Thanh, Nga Thuỷ với nghề trồng cói và dệt chiếu là chính trong vài trăm năm trở lại. Câu thơ " Chiếu Nga sơn gạch bát Tràng" là nói đến chiếu của các xã này. Cuộc bồi đắp phù sa vẫn tiếp diễn, Nga Sơn có hệ rừng ngập mặn phong phú, đa dạng về sinh thái biển. Do thiếu đất ở và canh tác, từ thập niên sáu mươi của thế kỉ trước người dân Nga Sơn đã ra định cư, thành lập hai xã mới là Nga Tân và Nga Tiến. Đây là dân tồng hợp của nhiều làng nhiều xã trong vùng đất cũ mà thành, trong đó cũng có rất nhiều người thuộc dòng họ Mai. Rừng ngập mặn biến mất trước sức tấn công của con người.
Trong ba hệ quần thể trầm tích nói trên thì trầm tích đại dương là chủ đạo nhất, tức là hệ trầm tích được tạo ta do quá trình biển lùi. Diện tích chính của Nga Sơn là vùng đất cát pha. Cư dân sinh sống đầu tiên cũng nhờ có biển lùi mà có đất ở. Dòng họ Mai của Mai An Tiêm cư trú chủ yếu trên đất của hệ trầm tích này. Họ vừa trồng cấy lúa nước vừa canh tác hoa màu đủ loại, trong đó có dưa hấu.
Nga Sơn là huyện nằm tiếp giáp với đồng bằng Bắc Bộ. Đứng ở vị trí bản lề của hai tiểu vùng văn hoá Sông Mã và Sông Hồng. Nga Sơn mang đậm nét địa văn hoá Sông Hồng. Người Nga Sơn hầu hết là từ phía bắc chuyển vào lập cư trong những thế kỉ trước, trừ một số dòng họ có mặt lâu đời. Tiếng nói của người Nga Sơn không mang âm sắc đặc trưng chung của người Thanh Hoá - sông Mã, mà nghiêng về âm sắc Bắc Bộ. Cái tên Nga Sơn lịch lãm cũng được xuất phát từ một nghĩa nôm rất mộc mạc, tức là vùng đất có núi sông kì vĩ, nhiều chim muông và thiên nga di trú.
Một câu hỏi đặt ra là: Nếu toàn thể dòng họ Mai được sản sinh từ Nga Sơn đều là con cháu nối đời của một điện hạ Mai An Tiêm với người vợ mà ông mang theo thì sao lại đông đến vậy. Từ một ông thuỷ tổ, rất nhiều chi nhánh được hình thành: Mai Văn, Mai Đình, Mai Đức, Mai Ngọc v.v... Hàng chục kiểu họ Mai. Ngược lại chưa thấy dòng họ Mai An nào cả, có thể họ tránh đi để khỏi phạm huý với ông tổ tôn kính chăng? Cả số sở tại lẫn số chuyển cư đi nơi khác sinh sống có thế đến hàng chục vạn người. Nếu dùng phương pháp toán học để tính tần số gia tăng nhân khẩu như ngành dân số học vẫn thường làm thì sau hơn hai nghìn năm, từ một ông Mai An Tiêm cư trú ngắn ngủi khó có thể bùng nổ một quy mô hậu duệ khổng lồ như vậy. Đó là chưa kể hệ số tử vong các kiểu thời xưa rất cao. Thêm nữa, chẳng lẽ sau khi được vua cha cho gọi về, vợ chồng Mai An Tiêm không mang theo đứa con nào hoặc không sinh thêm nữa chăng. Có bao nhiêu con trai đều vứt lại nơi góc biển chân trời này khi vợ chồng ông bước xuống thuyền lai kinh? ở Phong Châu cũng không thấy sự quần cư của dòng họ Mai tiêu biểu như ở Nga Sơn, thậm chí không có. Trước đây có một nhà dân tộc học cho rằng sự thật họ Mai chính là từ chữ họ Ma gọi lái đi, một bộ tộc thiểu số phía Bắc chuyển xuống cư trú mà thành dòng họ Mai đông đúc. Đấy chỉ là cách nói, bởi nếu đúng như lời nhà dân tộc học kia để hợp lí với sự hiện diện các dòng họ Ma phổ biến dọc vùng núi và trung du phía bắc hiện nay theo cái logích khách quan thì sự tích Mai An Tiêm - Vua Hùng - Quả dưa đỏ tương truyền nhiều đời nay sẽ chẳng còn giá trị nào hết, kể cả những giá trị về tư tưởng, triết học và đạo lí.
Đạo nghĩa Quân thần - Phụ tử
Trong truyền thuyết Mai An tiêm - Quả dưa hấu lưu truyền hết đời này đến đời khác đều có chung một nội dung: Mai An Tiêm là con trai vua Hùng thứ tư, là một người thông minh, cần cù và cương nghị. Một lần vô tình nói với vua cha" Của biếu là của lo; của cho là của nợ" đã bị vua cha bắt đi đầy ngoài hoang đảo vì tội bất kính, khinh quân. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, sóng to gió lớn, Mai An Tiêm đã đến một hoang đảo đầy chim muông và thú dữ. Ông và gia quyến đã bị giam cầm ở đây không hẹn ngày về, không có mối liên hệ với đất liền và quê nhà. Vốn là người bản lĩnh, ông đã cùng vợ lao động cần cù, vượt qua hiểm nguy để tồn tại. May có con chim đánh rơi mảnh dưa hấu ăn dở, ông phát hiện ra đó là giống quả quý nên đã trồng nó và thả vào đất liền để mọi người biết và chung hưởng. Cũng tình cờ nhờ quả dưa có dấu tích đến được tay vua cha do dân sở tại cung tiến, vua cha mới khen công trạng và cho thuyền đón Mai An Tiêm trở về triều đình. Thế rồi ngọn núi ấy mang tên Mai An Tiêm của ông, vùng đất ấy có con cháu họ Mai đầy đàn, có nghề trồng dưa đỏ nổi tiếng muôn phương.
Người đời sau thường hay lướt qua những chi tiết tưởng như vụn vặt để tiếp cận cái bề mặt của cốt truyện, đó là vì sao ngọn núi có tên Mai An Tiêm, vì sao Nga Sơn có dưa đỏ ngon lành, và vì sao có nhiều cư dân mang dòng họ Mai như vậy. Câu chuyện còn nhằm ca ngợi tính lao động cần cù của một điện hạ người Việt xa xưa. Cái triết lí trời có mắt, ở hiền gặp lành, có công mài sắt có ngày nên kim, lao động là vinh quang v.v... cũng rậm rịch vây quanh cốt truyện.
Nhưng, bản chất tư tưởng của truyền thuyết không dừng lại ở đó, nó cao cả và sâu sắc hơn nhiều. Rất có thể chúng ta đã không hiểu đúng thâm ý sâu xa mà người xưa muốn nhắn nhủ chúng ta thông qua câu truyện đầy bi thương này.
Thời đại các Vua Hùng tồn tại bao nhiêu năm, có mấy chục triều vua, chăn dân, trị nước ra sao... thật sự chưa ai biết chính xác. Chỉ biết cách đây mấy nghìn năm, khi Trung Quốc có Thần Nông, Phục Hy, Nghiêu Vương, Thuấn Đế, có Ân - Hạ - Thương - chu, Xuân Thu, Chiến Quốc... thì ở Việt Nam đã có vua Hùng cai quản, giang sơn riêng bờ cõi. Bằng sự thất bại của An Dương Vương Thục Phán gắn với oan tình Mỵ Châu - Trọng Thuỷ, nước Văn Lang - Âu Lạc mất vào tay ngoại bang. Thế có nghĩa là, trước đó, trong tâm linh người Việt, các vua Hùng gắn với giang sơn cẩm tú đã được minh định rạch ròi. Đó là chân lí vĩnh hằng của nhân gian.
Truyền thuyết đã làm chúng ta chạnh lòng về tình người, về đạo quân thần, phụ tử thuở bình minh của dân tộc, nhất là nó lại diễn ra chốn cung đình với bậc chí tôn của muôn dân bách tính.
Của biếu là của lo, của cho và của nợ. Giả thiết, nếu đây thật sự là câu nói của hoàng tử Mai An Tiêm với vua cha như trong truyền thuyết thì cũng có nghĩa ngay từ thuở Hồng Bàng tít mù đã có sự biếu - cho - lo - nợ vây ráp lẫn nhau. Giả thiết, nếu đây chỉ là một câu châm ngôn dân gian để chỉ một triết lí sống, được ra đời muộn hơn nhưng hậu thế đã cố gán cho nó vào cái thời Hồng Bàng xa xăm để tăng thêm sức thuyết phục và kịch tính của câu truyện, thì chí ít cũng phản ánh rằng ở thời các vua Hùng đã có một thể chế chính trị - xã hội khá chặt chẽ, đủ sức trở thành một vật mang, giá đỡ cho sự tồn tại các triết lí liên quan đến mối quan hệ phức tạp trong xã hội mà đời sau có quyền gửi gắm. Của cho và của biếu ở đây không mang tính thông thường mà là quà cáp dâng lên vua kèm theo ý đồ trục lợi, mặc cả của đám gian thần. Chốn cung đình tôn nghiêm đã trở thành nơi nhức nhối trong quan hệ người với người trước sự biếu, sự cho.
Chỉ một câu nói đã chạm nọc nhà vua đến mức phải tìm cách đầy con đi hoang đảo.
Người xưa có câu "Hổ còn không nỡ ăn thịt con, huống chi là người". Ở đây, người hại con không phải ai khác, mà chính là cha đẻ, là quân vương. Kẻ cứu anh lại chính là con chim lạ. Thế mới biết cuộc đời lắm nỗi oái oăm.
Cha của Mai An Tiêm chỉ là một vị vua trong thời đại vua Hùng. Không vì một hành vi cá biệt của ông mà quy kết cả một thời vàng son của dân tộc. Hoàn toàn đúng. Có điều từ câu chuyện truyền tụng trong nhân gian và in ấn công khai trên sách báo, giấy trắng mực đen suốt bao đời nay cho lớp trẻ học tập lại dẫn ra trường hợp hàm chứa nhiều trắc uẩn. Từ câu chuyện, người đọc có quyền rút ra mấy điểm cơ bản:
Từ thời xa xưa của biếu, của cho đã xuất hiện và trở thành tệ nạn, trở thành nỗi lovà món nợgiữa người với người, đặc biệt là trong quan hệ quân - thần.
Mâu thuẫn về quan niệm biếu-lo-cho- nợđã đạt đến đỉnh cao, chuyển từ sự bất đồng quan điểm đến sự xung đột quyền lợi, không đội trời chung, mang mâu thuẫn đẳng cấp xã hội.
Tính tàn bạo của một vị vua khi quyền uy và lợi ích bị xúc phạm. Đó là đặc trưng mang tính bản chất của một nền chuyên chế phương đông ngay từ buổi khai sinh.
Nối tiếp vua cha, Mai An Tiêm khi trở về kinh đô không mang theo con, tất cả để lại nơi hoang đảo. Phải chăng vì vậy mà ngày nay Nga Sơn hiện diện lắm hậu duệ của ông đến thế.
Những tư tưởng vừa nêu trên đây được thể hiện trong nội dung truyền thuyết mà bất cứ đọc giả nào chịu khó đọc chậm cũng có thể nhận ra. Nó nằm ngay trong câu chữ của truyền thuyết, không phải nhọc lòng suy diễn.
Những điều được rút ra về thời Hồng Bàng từ chính truyền thuyết
Là người Việt Nam , chúng ta tự hào về thời đại các vua Hùng dựng nước. Nhưng trong cái tổng thể ấy, không phải không có những cái để hậu thế phải suy ngẫm, xem xét và đánh giá.
Vậy căn nguyên của cái xót xa và tội lỗi thể hiện trong cốt truyện dân gian từ đâu mà ra? Câu trả lời giản đơn, đó là sản phẩm của nền chuyên chế vì quyền lợi kinh tế và chính trị. Người xưa muốn nhắn lại hậu thế thông qua truyền thuyết chính là chỗ này.
Các thế kỉ gần đây, nhiều ý kiến tranh luận về thời Nghiêu - Thuấn Trung Hoa. Đại bộ phận dân chúng, thông qua các sử liệu để lại đều ca ngợi các vị vua hiền gắn với thời trị nước hoàng kim của họ. Đó cũng là điều dễ hiểu, vì lịch sử nói thế thì biết thế. Các học giả căn cứ các mối quan hệ bản chất của sự vật thì đánh giá thời Nghiêu - Thuấn theo một quan điểm khác. Một số cho rằng, đây là thời đại man khai, chưa có của cải, chưa có phân tầng xã hội kẻ giàu và người nghèo. Vua chưa có bổng lộc và quyền uy gì lớn nên việc thực hiện dân chủ, gần dân, khuyến nông, cùng dân cày ruộng và nhường ngôi là chuyện không lớn. Có người nghĩ khác hơn, cho rằng thời ấy chưa có sử gia ghi chép, toàn nghe theo truyền khẩu với sự ca tụng xằng bậy, sự thật chắc không phải như vậy v.v.. và v.v... Các tài liệu chính sử Trung Quốc về thời này cũng hiếm.
Tôi nhớ hồi nhỏ cha tôi có đọc cho tôi nghe một câu đối liên quan đến hai vị vua Tàu vừa nêu trên do một nho sĩ nào đó viết ra thời trước. Cha tôi nói tên nhưng tôi đã quên. Câu đối vừa được hiểu theo nghĩa chữ Nôm, vừa được hiểu theo nghĩa chữ Hán, hiểu theo cách nào cũng có lí, mặc dầu nghĩa của nó lại đối nghịch nhau.
Thượng ung tai hạ ung tai ỉa đầu lại vương Nghiêu chí đức
Quân tắc cổ thần tắc cổ đái hàm quan đế Thuấn minh công
Nghĩa Nôm của hai câu đối thì đọc giả chắc đã hiểu, vừa tục vừa tinh, tỏ ý khinh bỉ bọn vua quan, không loại trừ cả ông Nghiêu, ông Thuấn thời xưa. Theo nghĩa Hán thì được hiểu ngược lại, tức là cả quan trên, quan dưới, cả quân cả thần đều phải hướng về các tấm gương của người xưa mà học tập, mà noi gương, đặc biệt là chí đức công minh của hai vị Nghiêu - Thuấn siêu phàm. Thế mới biết cái thâm thuý của chữ nghĩa. Mục đích cơ bản của câu đối là ở chỗ thời Nghiêu - Thuấn xa vời, khen cũng được mà chê cũng chẳng sao, nó chả có căn cứ nào cho sự đánh giá. Người ta mượn hai cụ xài chơi, cùng hai cụ chửi lũ tham quan ô lại đương thời.
Cách nhìn về Nghiêu - Thuấn đã vậy, cách nhìn về thời Vua Hùng cũng nên thấu đáo hơn.
Truyền thuyết Mai An Tiêm và Quả dưa đỏ vẫn tồn tại trong lòng nhân gian không phai mờ. Thông qua những hạt nhân lịch sử hiện hữu trong truyền thuyết giúp chúng ta tiếp cận từng bước việc nghiên cứu, tìm hiểu xã hội Việt Nam và cơ cấu Nhà nước Việt cổ.
Thứ nhất: Thông qua truyền thuyết, cho phép chúng ta hình dung về lãnh thổ quốc gia Việt cổ trước công nguyên, đã theo hướng bổ dọc xuống phương nam. Từ truyện Mai An Tiêm ở Nga Sơn đến truyện Thục Phán An Dương Vương đưa Mỵ Châu chạy nạn ra tận bờ biển Nghệ An rồi tuẫn tiết ở đó cho phép ước đoán về một nước Việt rộng lớn, có thể kéo dài đến tận đèo Ngang, đèo Hải Vân và xa hơn nữa.
Thứ hai:Triết lí trị nước, chăn dân, quan hệ quân - thần - phụ - tử kiểu Khổng Giáo đã có ngay trong lòng thời đại Vua Hùng, nó được sinh thành và tồn tại tự nhiên trong nền chuyên chính tập quyền. Chẳng cần phải chờ đến Tứ Thư - Ngũ Kinh từ Trung quốc tràn vào mới có. Cơ chế xã hội sản sinh ra triết lí tương xứng, đồng thuận.
Một nhà nước tập quyền sơ khai
Nhà nước thời Hùng Vương là thiết chế của nhà nước tập quyền sơ khai. Vua là kẻ thống trị muôn dân. Tư tưởng mang hình bóng tam cương, ngũ thường cũng từ đó mọc ra, lớn mạnh và đầy sức kiềm toả trong lòng xã hội. Vua bắt chết, thần phải chết. Dù là cha con nhưng với vua Hùng thì Mai An Tiêm là đạo quân thần, không thể chống lệnh. Vua bắt đi đầy, phải đi; vua cho gọi về, phải về.
Song nhà nước chuyên chế thời kì này chưa đạt đến độ hoàn chỉnh, chưa có sự thống nhất từ trên xuống dưới và phủ kín mọi vùng miền. Một sự hỗn dung các hình thái xã hội trong cùng một lãnh thổ. Bên cạnh thiết chế hướng về vua là chủ đạo thì kiểu thiết chế bộ lạc nguyên thuỷ, cộng đồng thôn xã biệt lập cùng tồn tại và đều phụ thuộc ở mức độ khác nhau, hình thức khác nhau trước vua như trước một ông trùm khổng lồ.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đó là vấn đề cơ bản của triết học Mácxít. Một thiết chế vua - tôi tập quyền với yêu cầu tồn tại và phát huy ảnh hưởng chỉ có thể có được khi có một hệ ý thức tương ứng làm công cụ. Các nội dung Nho giáo mà các nhà tư tưởng Trung Quốc trình diễn trên sân khấu chính trị Trung Hoa cổ đại thực chất chỉ là sự tập hợp và hệ thống hoá những phép tắc trị nước đang hoạt động tản mạn trong thực tiễn xã hội từ cả ngàn năm trước đó. Nó là thuộc tính, là phần hồn của chuyên chế tập quyền. Nhiều lắm các trước tác chỉ có giá trị hoàn chỉnh, nâng lên thành giáo lí nhằm thúc đẩy và củng cố vững chắc thêm cho nền đế chế phong kiến đương thời.
Với những cứ liệu lịch sử mà chúng ta thu lượm được, tuy không nhiều, cũng đủ căn cứ về sự tồn tại xã hội Việt cổ thời vua Hùng, đó là một thể chế tập quyền sơ khai. Triết lí trị dân của nó về bản chất cũng mang hình bóng Nho giáo của quốc gia láng giềng phương Bắc.
Nếu ai cho rằng chỉ từ thế kỉ X, sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán (năm 938), giành lại độc lập sau nghìn năm Bắc thuộc, xây dựng được nền tập quyền thống nhất trên một quy mô mới; hoặc dưới thời Lí - Trần cường thịnh, Nho giáo mới xâm nhập vào Việt Nam và phát huy ảnh hưởng, thì thật sự chưa thoả đáng, không logích với bản chất lịch sử. Quan niệm Nho giáo máy móc theo kiểu chữ nghĩa thư nọ, kinh kia được nâng lên tầm giáo lí trị nước gắn với các ông Khổng Khâu - Mạnh Kha - Tôn Tử, thì có thế đúng phần nào. Còn nếu hiểu Nho giáo như một bản chất, một linh hồn, một nguyên tắc của chuyên chế tập quyền thì ở thời Việt cổ vua Hùng đã hiện diện.
Sau khi nhà nước Âu Lạc bị mất vào tay Triệu Đà, nước ta biến thành nơi không có thể chế chính trị nào hết, mà chỉ còn là một vùng đất nằm dưới sự điều khiển của các quan giám binh Trung Hoa, thả sức đào bới của cải và sức người bản địa. Các triết lí trị nước thời vua Hùng hoà tan vào đời sống dân gian.
Một nền văn hoá ổn định và bền chặt
Tính tương đồng văn hoá vùng địa lí Bách Việt cổ xưa là sự tương đồng hồn nhiên do quá trình vận động của lịch sử, là tài sản chung của cư dân cùng tạo ra, họ có quyền bảo tồn, phát triển và không phải băn khoăn về sự giống hay không giống nhau. Nhiều quan điểm cực đoan thường hay quy chiếu khái niệm đồng hoá, thôn tính cho thời kì này một cách máy móc đã vô tình đánh mất cái hiện thực đáng trân trọng mà con người cùng nhau gây dựng từ trước đó hàng vạn năm. Ngay châu Âu văn minh là vậy mà chỉ sau khi đế quốc La Mã suy tàn, các quốc gia mới dần dần hình thành và phải mất hàng thế kỉ đổi thay chuyển dịch mới tạo được sự ổn định về lãnh thổ, ngôn ngữ và văn hoá. Tính tương đồng tự nhiên của các quốc gia châu Âu là sản phẩm tự nhiên của lịch sử châu Âu, không nên dùng các thiên kiến chính trị can thiệp vào cái mẫu số tương đồng ấy.
Nếu nghiên cứu những nét văn hoá vùng Trung Hoa sát Việt Nam thì thấy nhiều điểm giống nhau đến kì lạ. Nó xuất hiện trước khi con người hình thành ý đồ thôn tính và đồng hoá. Khó ai biết rằng ở cái thời xa xăm ấy Hoa đồng hoá Việt hay Việt đồng hoá Hoa trên vùng Tây Nam Hoa Hạ lam chướng nghìn trùng này. Đây chính là địa giới hoang sơ mà anh em Lưu - Quan - Trương thời Tam Quốc không còn nơi dung thân phải đành lòng chấp nhận để xây dựng lên Nhà nước Tây Thục hồi đầu công nguyên. Cả một vùng đất nghèo nàn và lạc hậu cận kề Việt Nam đâu phải là sức mạnh để đồng hoá một dân tộc có nền văn minh Sông Hồng phát triển ở trình độ cao.
Khi có sự xâm lược chính thức Việt Nam cách đây hơn 2000 năm thì nền văn hoá Việt Nam mang bản sắc riêng về cơ bản đã ổn định. Những dấu ấn văn hoá Việt cổ trên đất Trung Quốc hay những dấu ấn văn hoá Trung Hoa trên đất Việt mà chúng ta nhận thấy âu cũng là sự giao thoa, cho nhận lẫn nhau từ mấy ngàn năm trước.
Nước mất nhưng làng không mất; mất phép vua nhưng còn lệ làng. Mỗi làng Việt được hình thành trong quá trình thiên di xuống Châu thổ sông Hồng đã có một phong cách riêng. Tính cố kết bền vững và mang đặc trưng như một cái File lưu giữ huyền diệu với một Password mật mã độc đáo không dễ dàng thâm nhập và hoá giải. Chính Trung Hoa cũng không hiện diện mô hình làng xã bền chặt này. Đấy chính là căn cứ cho sự trường tồn mãnh liệt mà sau gần một nghìn năm Bắc thuộc, nó vẫn đủ sức vươn lên giành lại dân tộc.
Đó chính là trình độ văn minh của Nhà nước thời đại Vua Hùng.
Sau những thế kỉ gián đoạn, nền đế chế tập quyền Việt Nam trở lại thì triết lí phong kiến cũng hồi sinh. Có điều lần này nó được hiện diện dưới dạng "ngoại nhập" sách - chữ - chương- mục - nhãn mác - đai kiện, do các vị đại nho Trung Quốc biên soạn hoàn hảo hơn, mang thương hiệu Nho giáo. Cũng phải trải qua các triều đại Tống - Đường thịnh trị, cơ chế văn hoá Trung Hoa mới có đủ khả năng tiếp cận và thâm nhập vào các nền văn hoá khác theo một quy mô mới, trong đó có Việt Nam.
Nếu không có một cơ địa xã hội, một tồn tại xã hội tương thích kiểu Ngô - Đinh - Lê - Lí - Trần thì các triết lí vào đất Việt cũng sẽ trở thành vô nghĩa, không có đất dung thân.
Xây dựng một triết lí mới hoặc áp dụng một triết lí, một học thuyết cho một tồn tại xã hội không phù hợp hoặc chưa đủ sức chấp nhận và dung dưỡng là cách đi ngược, đôi khi trở thành lực cản cho sự phát triển tự nhiên của tồn tại xã hội vốn có. Những dích dắc lịch sử nhiều khi cũng từ đó mà ra.
Truyền thuyết không phải là lịch sử mà chỉ là sự phản quang lịch sử. Chúng ta không lẫn lộn hoặc đồng nhất các yếu tố mang hình thức lịch sử có trong truyền thuyết với hiện thực lịch sử. Nhiều lắm cũng chỉ được phép mổ xẻ cái khối truyền thuyết đồ sộ và hỗn dung dã sử để thu lượm bên trong nó những hạt nhân lịch sử hợp lí. Những hạt nhân lịch sử hợp lí hiện hữu trong truyền thuyết này có tính logích với các sử liệu khác đã cho phép chúng ta khái quát và sơ bộ nhận định về hiện thực tư tưởng thời đại các vua Hùng như đã nêu ở trên. Cái tuyệt vời của truyền thuyết chính là ở tính thực thực ảo ảo và không rành mạch của nó, vừa có, vừa không, hiện hữu trong logích tâm linh, nhưng lại phi logích ở các chứng cứ hiện hữu. Cái nghiêm cẩn và cái thăng hoa hoà trộn trong nhau. Truy nguyên đến tận cùng chân lí thì sẽ là một ảo tưởng, một sai lầm trầm trọng, vô tình đánh mất cái hồn thiêng trong đặc trưng truyền thuyết.
Truyền thuyết là của dân gian tạo ra, truyền đời này qua đời khác, ai muốn cảm nhận nó theo góc độ nào tuỳ ý. Mọi người Việt Nam đều có chung quyền lợi thụ hưởng tinh hoa và cùng nhau chia sẻ những trắc uẩn từ đó mà ra. Thiết nghĩ, truyền thuyết Mai An Tiêm gắn với quả dưa hấu Nga Sơn cũng chỉ đủ căn cứ cho sự suy luận đến mức độ đó.
Đáng tiếc, trong những năm gần đây, trước yêu cầu tôn tạo, trùng tu, bảo quản và phát triển di sản văn hoá, cả vật thể và phi vật thể, nhiều nơi nhiều người đã đi hơi quá bước. Họ đã viết lại truyện dân gian, bịa ra truyền thuyết với bố cục chặt chẽ, hợp lí, chấm phá các chi tiết li kì, quái đản nhằm tạo lực hút cho những người mê tín và khách du lịch hiếu kì phương xa. Đó là một lỗi lầm của truyền thuyết và văn hoá.
May mắn thay, truyền thuyết Mai An Tiêm và Quả dưa đỏ không chịu chung cảnh ngộ. Những gì hiện diện trong truyền thuyết này đã mang giá trị phản ánh một hiện thực hoặc chí ít cũng biểu đạt một quan niệm của cha ông ta từ ngàn năm trước về thời đại các vua Hùng vẫn được giữ gìn nguyên bản. Hậu thế có quyền tự hào, có quyền phán xét. Cũng từ đây, truyền thuyết đã cho chúng ta những ý niệm về xã hội Việt Nam thời Hồng Bàng; đó là một quốc gia, một dân tộc có văn hoá và chính trị độc lập, vào loại sớm nhất thế giới.
Cái chúng ta cảm nhận được từ truyền thuyết này, âu cũng là những bài học quý trong việc xây dựng nhân cách, đạo làm người, làm cha, trong cách ứng xử các mâu thuẫn cá nhân và xã hội.
Nguồn: hoidantochoc.org.vn ( 22/08/06)