Trường học cộng sản đầu tiên của chiến sĩ cách mạng Việt Nam
Năm tháng sau ngày Quốc tế thứ ba thành lập, 5-8-1919, Chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng LevTrosky đã gửi thư cho BCH TƯ ĐCS Nga (b) đề xuất chuyển hướng sang phương Đông, nơi, theo ông, đã mở ra triển vọng mới cho bão táp cách mạng. Tinh thần này cũng toát lên trong cuốn sách Càng ít càng tốtcủa V.l. Lênin. Từ đó, “chủ trương Đông tiến” trong hoạt động của Quốc tế cộng sản (QTCS) dần dần hình thành. Nhằm đào tạo “các nhà mác-xít có học vấn thay cho đội cận vệ già” theo chủ trương chung, trong khuôn khổ QTCS nói riêng, các cơ sở đào tạo bậc đại học lần lượt được thành lập như Trường Đại học cộng sản cho người lao động phương Đông (gọi tắt là ĐH Phương Đông), Trường Đại học công sản cho các dân tộc thiểu số phương Tây, Trường Quốc tế Lênin, Trường Đại học cộng sản cho người lao động Trung Hoa, Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa(Viện các VĐ DT và TĐ)… QTCS đã phát hành báo và tạp chí phục vụ thành viên phong trào CS và CN QT như Communist International, Inprekorr… và cử các cán bộ giàu kinh nghiệm đi công tác ở một số lãnh thổ trọng yếu để hỗ trợ phong trào sở tại, đề cao tinh thần quốc tế vô sản, thực hiện bônsêvích hoá các Đảng kiểu mới vì đã nhận thực được nguy cơ “các cán bộ lãnh đạo có trình độ thấp” của Xô viết ở các nước là thuộc địa vừa giành được chính quyền.
Ra đời tháng tư năm 1921, ĐH Phương Đông bắt đầu bằng việc “đào tạo cán bộ cho Đảng và cho các Xô viết tại các nước công hoà tự trị, các công xã và các dân tộc ít người…” trong nước Nga. Nhưng kể từ năm 1922, ĐH Phương Đông trở thành trường đầu tiên ở Liên Xô tiếp nhận người nước ngoài tại phân hiệu đặc biệt (sector A) và giảng dạy bằng các thứ tiếng nước ngoài “phục vụ cho đông đảo quần chúng lao động phương Đông”. Trường gồm hai hệ đào tạo ngăn hạn (1-1,5 năm) và dài hạn (3-4 năm) dành cho các Đảng viên, Đoàn viên cốt cán, học vấn trung bình; nhưng vẫn có thể tiếp nhận những người ngoài đảng, hoặc có trình độ sơ học, nhưng đã tích cực tham gia phong trào cách mạng tại các nước vừa mới có Đảng. Cá biệt, nhà trường tiếp nhận cả những trường hợp hoàn toàn thất học. Trường thường xuyên được các vị lãnh đạo của nhà nước Xô Viết lúc đó như Lev Trosky (thường huấn thị các vấn đề lý luận), và I.V. Stalin (với các quan điểm cụ thể sâu sát, như thể hiện trong diễn văn “ Nhiệm vụ chính trị của trường Đại học các dân tộc phương Đông”, 18-5-1925) tới thăm. Kể từ cuối những năm 1920, Trường lập hệ chuyên đào tạo cán bộ cho các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, và hệ đào tạo trên Đại học. Hiệu trưởng đầu tiên của ĐH Phương Đông là ông Broido G.I.
Những năm 1920 ở Liên Xô, công tác nghiên cứu về Đông Dương mới bắt đầu được Ban phương Đông trực thuộc QTCS, ĐH Phương Đông, Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa (1), và Trường Quốc tế Lênin tiến hành (2). Tới đầu những năm 1930, ĐH Phương Đông đã trở thành cơ sở hàng đầu nghiên cứu khoa học và giảng dạy về các vấn đề kinh tế - chính trị, xây dựng Đảng, tổ chức phong trào cộng sản và giải phóng dân tộc ở Phương Đông. Trường đã cuốn hút được các cán bộ giảng dạy giỏi nhất Matxcơva, và không ít người trong số này đã gắn bó số phận của mình với phong trào giải phóng dân tộc phương Đông.
Về phía Việt Nam, vào khoảng năm 1920, cụ Phan Bội Châu đã từng có cuộc gặp với Karakhan L.M. đại sứ Liên Xô đầu tiên ở Trung Quốc, trong đó đã đề cập đến việc cử các thành viên Việt Nam Quang Phục hộisang Liên Xô học tập.
Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang tới Matxcơva. Một trong những hoạt động quan trọng của Người ở đây là vận động gửi lưu học sinh Việt Nam sang học tập tại Liên Xô. Trong bài báo đăng trên tờ La Vie Ouvrière của Pháp số ra ngày 21-3-1924, Nguyễn Ái Quốc đã mô tả cơ cấu và hoạt động của ĐH Phương Đông và bảy tỏ cảm tưởng qua chuyến tham quan Trường. Về tầm quan trọng và nhiệm vụ của Trường, Nguyễn Ái Quốc viết “ĐH Phương Đông đã làm được việc trọng đại là liên kết lực lượng trẻ, tích cực, đầy tài năng của các nước thuộc địa… Trường là mẫu mực khẳng định những người vô sản có thể và cần phải làm cho những người anh em của họ đang bị đế quốc áp bức ở các nước thuộc địa đứng lên chống lại chúng”. Tháng 5-1924, Nguyễn Ái Quốc viết thư cho BCH QTCS đề xuất việc thành lập khối sinh viên châu Á tại ĐH Phương Đông, thư có đoạn “Trường phải trở nên lò luyện, hun đúc những nhà cổ động cách mạng (agitator) đầu tien của phương Đông”. Tháng 6 năm đó, phát biểu với tư cách đại diện ĐCS Pháp tại Đại hội V QTCS về sự nghiệp cách mạng tại các nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cần “gửi người bản xứ thuộc địa sang Matxcơva theo học ĐH Phương Đông”.
Vai trò quan trọng trong xây dựng phân hiệu Đông Dương của Trường thuộc về Vera lakovlevna Vaxilieva. Sau khi tốt nghiệp MGU và Viện giáo sư đỏ, bà đã trở thành cán sự Viện các VĐ DT và TĐ kiêm giảng viên ĐH Phương Đông, đồng thời là cán bộ chuyên trách Đông Dương của QTCS. Nữ giáo sư Razumova A.L. giảng dạy các môn Công tác quần chúng của Đảng, Đất nước học. Bà từng làm nhiệm vụ tuyển lựa học viên viên Đông Dương tại Pháp để đưa sang Liên Xô học, trong vai nữ công nhân Pháp Suzannelàm việc cho Ban thuộc địa ĐCS Pháp. Theo các nguồn tin, bà từng bí mật sang Sài Gòn công tác một số lần vào những năm 1931-1935. Giảng viên người Ý Ermondo Peluzo dạy môn Lịch sử hiện đại, Lịch sử QTCSlà người thày được học viện Đông Dương vô cùng yêu mến. Mỗi giờ giảng của Peluzo như một kịch trường tái hiện các sự kiện lịch sử mà sinh viên tham gia vào như một dàn diễn viên, còn Peluzo là đạo diễn. Các thầy Khatchaturov G.G. dạy Chủ nghĩa Lênin, Kinh tế chính trị học, Novikov la.Z. dạy môn Công nghiệp Đông Dương. Nữ giảng viên Rivlina E.E. giảng môn Phong trào thanh niên và Chế độ công đoàn… Minin (Nguyễn Khánh Toàn) phụ trách giáo pháp và công tác tổ chức, cũng tham gia giảng dạy. Từ năm 1934-1938, Linov (Nguyễn Ái Quốc) dạy môn Các vấn đề Đông Dương. Việc đào tạo cán bộ lãnh đạo chuyên trách cho Đông Dương được chú trọng từ sau thất bại của Xô viết Nghệ Tĩnh đã làm nảy sinh nhu cầu về các chuyên gia ngành Đông Dương học. Từ 1931 đã thành lập hệ nghiên cứu sinh về Đông Dương tại ĐH Phương Đông và các nhà trường, học viện khác của Liên Xô, như Đại học Đông phương học tại Leningrad mang tên Enukidze (3).
![]() |
Vera Vaxilieva, người sáng lập môn Việt Nam học Xô viết, đồng chí thân thiết của Nguyễn Ái Quốc ở Đại học Phương Đông. |
Về phương pháp luận, nhà trường cho rằng “cần biến học thuyết của Mác thành vũ khí lợi hại trong hoàn cảnh tranh đấu cụ thể của những người cộng sản Đông Dương”, rằng “cần tránh việc học viên áp dụng một cách thiếu phê phán kinh nghiệm cách mạng Liên Xô vào hoàn cảnh Đông Dương”. Cùng với các tài liệu giáo khoa Mác-Lênin, đã đưa các học liệu như các cuốn Nghệ Tĩnh Đỏ (Godovshina krasnovo Ngeana), Các nguyên tắc tổ chức của chủ nghĩa bônsêvíchcủa học viên Hồ Nam (Trần Văn Giàu) vào làm tài liệu giảng dạy của các giáo sư… Về vấn đề tài liệu, Nguyễn Ái Quốc đã viết trong thư sau, gửi từ Hồng Kông năm 1931: “Sau mỗi bài học, giảng viên cần khái quát lại bài học. Các học viên cần biên dịch các bài giảng sao cho cả những đồng chí chậm hiểu nhất cũng tiếp thu được. Các bản dịch cần được gửi về Đông Dương để phổ biến cho Đảng viên. Như vậy, toàn Đảng có thể tiếp nhận được các kiến thức cơ sở cần thiết cho công tác. Khi đó, những ai được cử sang ĐH Phương Đông sẽ có được trình độ cơ bản để theo học những lớp cao hơn. Những bản dịch chúng tôi nhận được cho tới nay khá khó hiểu do câu cú phức tạp, từ ngữ kém tính phổ cập bình dân. Vì vậy để chỉnh lý các bản dịch này, tôi thường phải yêu cầu gửi thêm bản tiếng Pháp và tiếng Anh…”.
Quốc tế cộng sản đã theo dõi sát sao quá trình đào tạo tại ĐH Phương Đông, chủ trương “cải cách đào tạo theo hướng Đông Dương hoá, tiếp cận với yêu cầu thực tế của nhiệm vụ cách mạng tại chỗ”. Trong cuộc kiểm tra diện rộng tại Trường do QTCS tiến hành năm 1932, đã phát hiện một số môn “không phù hợp với điều kiện bản địa, được soạn thảo máy móc, không khác gì chương trình dành cho người Xô viết… Việc phương Đông hoá môn học còn khiên cưỡng, không sâu sát trình độ của sinh viên phân hiệu đặc biệt (Đông Dương)”. Các cán bộ lãnh đạo của QTCS, Quốc tế công hội, BCH TƯ ĐCS LX, như Manuisky, Piatnisky, Lozovsky, Palmiro Togliati, Vương Minh… thường xuyên tới đọc bài bài giảng, gặp gỡ sinh viên Đông Dương và giáo viên của ĐH Phương Đông. QTCS còn yêu cầu nhà trường phải “chuyển từ cơ cấu khoa sang cấu trúc tổ, nhóm tự quản để đảm bảo yêu cầu bí mật”.
Nhà trường đã duy trì nghiêm quy tắc bảo mật. Môn hoạt động bí mật do thầy Boshkovitch B, người Nam Tư, giảng dạy. Các sinh viên đều mang bí danh ghi trong hộ chiếu Xô viết của mình. Thường mỗi người có vài bí danh cho các trường hợp khác nhau, như đi thực tế, nghỉ dưỡng bệnh, đi họp ở thành phố khác… Bí hiệu chính của các học viên thường được dùng sau này trong quá trình công tác.
![]() |
Giấy chứng nhận đại biểu của Nguyễn Thị Minh Khai, tham dự đại hội QTCS thứ 7 năm 1935. |
Do đầu vào có học viên thuộc diện “chính sách”, tuy ngoài Đảng, ngoài Đoàn vẫn được tuyển chọn để khuyến khích phong trào, đã có những phần tử khiêu khích lọt vào nội bộ học viên của Trường. Sau khi tốt nghiệp về nước, có kẻ đã cộng tác với địch. Vì vậy, tại ĐH Phương Đông đã tiến hành các cuộc thanh đảngtrong trào lưu chung của thời kỳ sau 1929, theo tinh thần của phiên đoàn thể lần thứ X của BCH QTCS “… về đối nội, đã nổi lên cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, đang là đường dẫn cho ảnh hưởng tư sản thẩm lậu vào giai cấp công nhân, và cho khuynh hướng xã hội dân chủ ngấm vào phong trào cộng sản…”. Các học viên bị nghi vấn thường được xử lý nội bộ, như đưa sang Pháp với phích“cách ly khỏi Đảng”, hoặc đưa đi cải tạo ở các nhà máy tại Liên Xô. Trong những người phải đi cải tạo, sau này có những người được phục hồi danh dự như Lê-ô (Đặng Đình Chục, hay Mincov), thậm chí được trọng dụng như Svelton (Lý Phú San)…, nhưng không phải không có người chịu phận bi đát.
Trong suốt thời gian tồn tại, ĐH Phương Đông đã bị kẻ thù rình rập cả ở tầm xa lẫn tầm gần. Ngoài việc tìm cách cài người vào số học viên của trường, đã có những chánh mật thám như Kirsher được chính quyền Pháp cử sang Nga năm 1927. Có những antenđược triển khai hướng vào ĐH Phương Đông, nhờ sự giúp rập của Sứ quán Pháp tại Matxcơva. Kết hợp với tin do thám thu được từ khâu tuyển lựa tại Paris, người Pháp cho rằng đã nắm được hành trình đến Matxcơva học và đường về tổ quốc qua Pháp của học viên, biết tường tận sự vụ trong Trường, cũng như “các mưu đồ của mađam Vaxilieva”…
Từ cuối những năm 1930, ở Liên Xô liên tục xảy ra các cuộc đàn áp và thanh trừng hàng loạt, áp dụng với cả các đảng viên người nước ngoài. Giờ phút khó khăn với Quốc tế cộng sản cũng đã điểm. Hệ thống trường cộng sản vì thế dần dần giải thể. Tại ĐH Phương Đông, các giáo viên kỳ cựu như Razumova và Ermondo Peluzo bị bắt bớ, tù đày. Linov (Nguyễn Ái Quốc) lên đường về nước. Vaxilieva được thuyên chuyển sang chuyên trách công tác nghiên cứu khoa học, nơi bà tích cực đóng góp vào sự phát triển ngành Việt Nam học (6).
Các sinh viên Đông Dương sau cùng ở Matxcơva đã tham gia vào chiến dịch bảo vệ thủ đô Xô viết những năm 1941-1942 và hầu hết đã hy sinh.
Đầu những năm 1950, Vaxilieva đã gặp lại Linov, lúc này đã là Chủ tịch Hồ Chí Minh và được Người mời sang thăm nước Việt Nam độc lập. Vaxilieva đã dự kiến dùng chuyến đi để viết cuốn sách về Việt Nam nhân kỷ niệm 15 năm thành lập nước VNDCCH (1945-1960). Một số không nhiều học sinh của bà, những người còn sống sót qua những thử thách khốc liệt của cuộc xâm lược do Pháp gây ra, như Hồ Nam, Burov (Dương Bạch Mai), Ziao (Bùi Công Trừng), Pala (Nguyễn Văn Minh), Prigornyi (Nguyễn Văn Trân), Minin… hẳn đã hân hoan chờ đón người thày, người thủ trưởng cũ tại cơ quan QTCS của mình. Tuy nhiên, nguyện vọng tái ngộ của họ không thành. Năm 1959, Vaxilieva đột ngột từ trần ở Matxcơva, khi mới 59 tuổi.
______________
1. Tiền thân của Viện các VĐ DT và TĐ là nhóm nghiên cứu lịch sử phương Đông của ĐH Phương Đông ra đời năm 1925, quá độ thành Hội nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa năm 1929, rồi vào năm 1937 tách ra thành một Viện nghiên cứu độc lập. Cùng năm 1937, nghiên cứu sinh Lin (một bí danh khác của Nguyễn Ái Quốc) đã bắt đầu soạn luận văn “ Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam Á” làm tiểu luận “ Tình cảnh nông dân Đông Dương” tại Viện các VĐ DT và TĐ, nhưng ông đã lên đường về nước tháng 10-1938, ngay trước khi Viện giải thể cuối năm đó.
2. Trường quốc tế Lênin là trường Đảng cao cấp, nâng cao trình độ cho cán bộ lãnh đạo các Đảng anh em, được thành lập năm 1926 theo nghị quyết Đại hội V của QTCS. Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu tại trường Quốc tế Lênin năm 1934-1935. Trường giải thể tháng 9/1938.
3. Trong số các nghiên cứu sinh về đề tài Đông Dương thuở ban đầu có Minin (Nguyễn Khánh Toàn). Với luận án “ Khởi nghĩa nông dân Tây Sơn ở Đông Dương trong thế kỷ 18”, năm 1931 Litvinov (Lê Hồng Phong) khởi thảo công trình nghiên cứu xuất sắc mang tên “Tình hình kinh tế và chính trị Đông Dương” nhưng dang dở, vì tác giả trở về Tổ quốc hoạt động.
4. Như: Lý Quý (yêu quý người mang họ Lý, ở đây là Lý Thụy) là bí danh Trần Phú thường dùng, Fan Lan là Nguyễn Thị Minh Khai, Kan là Phùng Chí Kiên, Sinitchkin là Hà Huy Tập…
5. Khi sinh viên Đông Dương sang tới Matxcơva. Phòng đối ngoại của BCH QTCS sẽ thanh toán cho một số tiền là 25 rúp vàng, bồi hoàn cho chi phí đi đường. Trong khi đó một sinh viên Trung Hoa được thanh toán tới 250 rúp.
6. Cuối đời Vaxilieva công tác tại Viện phương Đông học trực thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Trong số hơn 90 công trình của Vaxilieva đáng chú ý có các chuyên khảo như “Đông Dương” (hoàn thành năm 1947), luận án phó tiến sĩ như “Hệ thống thuộc điạ của chủ nghĩa đế quốc khủng hoảng ngày càng sâu sắc” (bảo vệ năm 1940), đề tài khoa học “Sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc” (năm 1958)…
Nguồn: Xưa & Nay, số 257, 4/2006, tr 14-17