Triết học*
Và hầu hết mọi người thiên về một bức tranh rất chung chung mô tả thế giới như thế nào đó. Có thể chúng ta nghĩ rằng có một đấng thánh thần đã tạo ra mọi thứ, gồm cả con người; hoặc, ngược lại, chúng ta nghĩ rằng tất cả chỉ do ngẫu nhiên và do sự chọn lọc tự nhiên. Có thể chúng ta tin rằng mọi người đều có những phần phi vật chất, bất tử gọi là linh hồn hoặc tinh thần; hay, hoàn toàn ngược lại, rằng chúng ta chỉ là những sắp xếp phức tạp của vật chất mà sẽ dần dần tan rã thành những mảnh vụn sau khi chúng ta chết đi. Như vậy, hầu hết chúng ta, ngay cả những người chẳng hề nghĩ về điều đó, đều có những suy nghĩ tựa như lời giải đáp cho hai vấn đề triết học cơ bản, đó là: chúng ta nên làm điều gì? và, thực tại là gì? Và còn có vấn đề cơ bản thứ ba, mà hầu hết chúng ta cũng đều có một loại giải đáp nào đó bắt đầu xuất hiện vào lúc chúng ta tự ý thức về một trong hai vấn đề cơ bản nói trên, đó là: chúng ta hiểu biết bằng cách nào, hoặc nếu chúng ta không biết, thì bằng cách nào chúng ta bắt tay vào việc phát hiện – bằng mắt nhìn, bằng suy nghĩ, hỏi ý kiến một nhà tiên tri, hoặc hỏi một nhà khoa học?
Triết học, được xem như một đối tượng mà bạn có thể nghiên cứu, một thứ mà bạn chẳng hề biết, hay có hiểu biết khá hơn, ngay cả khi bạn hiểu biết chuyên sâu về nó, thì chỉ đơn giản có nghĩa là ưu tư nhiều hơn về vài vấn đề trong số những vấn đề nêu trên, và về những tương quan qua lại giữa chúng, là học hỏi những gì đã được đề cập về chúng và tại sao như vậy.
Nếu triết học rất gần gũi với chúng ta đến thế, tại sao nhiều người nghĩ rằng nó là điều rất khó hiểu và khá là kì lạ? Không phải là họ hoàn toàn hiểu sai: vài nền triết học thìkhó hiểu và kì lạ, và một số nền triết học thâm sâu hơn cả thì có thể là thoạt tiên có vẻkhó hiểu và kì lạ. Sở dĩ vậy vì nền triết học thâm sâu hơn cả không chỉ đưa ra vài sự kiện mới mà chúng ta chỉ đơn giản là cộng thêm vào kho chứa thông tin của chúng ta, hoặc vài châm ngôn mới để thêm vào danh sách của chúng ta về những điều cần làm và cần tránh, mà còn là hiện thân của một bức tranh về thế giới và / hoặc là một bộ những giá trị; và trừ phi những thứ đó đã ngẫu nhiên trở thành của bạn rồi (hãy nhớ rằng chúng ta đều đã sở hữu chúng theo cách chưa được rõ ràng và thiếu sự phản tỉnh) bằng không thì nền triết học đó có chiều hướng xem ra rất kì lạ – nếu nó không có vẻ kì lạ, có nghĩa là bạn đã không hiểu được nó.
Triết lí thâm sâu giúp mở rộng trí tưởng tượng của bạn. Một số nền triết học gần gũi với chúng ta, bất kể chúng ta là như thế nào. Rồi dĩ nhiên là có một số nền triết học rất xa cách với chúng ta, và một số khác còn xa cách hơn nữa, và một số khác nữa quả thực là xa lạ với chúng ta. Sẽ rất đáng thất vọng nếu sự thể không là như vậy, vì điều đó hàm ý rằng con người khá đơn điệu về mặt tri thức. Nhưng không cần thiết phải bắt đầu từ chỗ nước sâu, nghĩa là chỗ khó khăn nhất; chúng ta hãy bắt đầu từ chỗ nước nông, nghĩa là chỗ dễ dàng nhất, nơi mà (như tôi đã nói) chúng ta đều đã đứng trong dòng nước. Tuy nhiên (ở đây, sự so sánh với một bể bơi khiến tôi mắc vào thế kẹt, như mọi sự so sánh thường đều như vậy) hãy ghi nhớ rằng điều này không nhất thiết có nghĩa là tất cả chúng ta đều đứng ở cùng một chỗ: nông và quen thuộc, với sâu và kì lạ, có thể tùy thuộc vào nơi mà bạn dấn mình vào, và tùy thuộc vào thời điểm nữa.
Một người theo Phật giáo sẽ bảo với bạn rằng mục đích của triết học là giảm bớt những khổ lụy của kiếp người và đạt được ‘sự giác ngộ’; một người theo Ấn giáo sẽ nói điều tương tự nhưng với những thuật ngữ hơi khác; cả hai sẽ nói về sự thoát khỏi cái được cho là vòng tròn của sinh tử, ở đó những gì mà một người đáng được hưởng hoặc đáng phải gánh chịu về mặt đạo đức sẽ quyết định những dạng của cuộc đời trong tương lai của người đó. Một người theo chủ thuyết Epicurus (nếu bạn còn có thể tìm thấy một người như vậy ở thời này) sẽ gạt bỏ mọi thứ liên quan tới sự tái sinh, để cống hiến cho bạn một công thức sống sao cho đạt được tối đa hoan lạc và chỉ phải chịu tối thiểu khổ đau trong cuộc đời duy nhất mà bạn có được.
Không phải mọi triết lí đều nảy sinh từ nhu cầu về một cách ứng xử có tính toàn diện trước lẽ tử sinh. Nhưng hầu hết các nền triết học tồn tại dài lâu đều nảy sinh từ một động cơ cấp bách nào đó hoặc một niềm tin tưởng sâu xa – tìm kiếm chân lí và minh triết thuần túy chỉ vì lợi ích của chúng có thể là một ý tưởng hay, nhưng lịch sử gợi ra ý nghĩ rằng một ý tưởng hay hầu như là tất cả những gì gọi là triết lí. Thế nên triết học cổ điển Ấn Độ biểu trưng cho sự tranh giành uy thế tri thức giữa những trường phái Ấn giáo, và giữa tất cả những trường phái đó với những trường phái Phật giáo; cuộc chiến để có được sự cân bằng đáng ưa thích giữa lí trí con người và mặc khải căn cứ trên kinh sách đã diễn ra trong nhiều nền văn hóa, và còn diễn ra cho tới ngày nay trong một số nền văn hóa; lí thuyết chính trị nổi tiếng của Thomas Hobbes cố gắng giảng dạy cho chúng ta những bài học mà ông nghĩ là cần phải học trong hậu kì của cuộc Nội chiến Anh quốc; Descartes và nhiều người cùng thời của ông lại chuộng những quan điểm thời trung cổ, vốn bắt nguồn từ những tác phẩm của Plato gần hai ngàn năm trước, để đứng sang một bên, dành chỗ cho một quan điểm hiện đại về khoa học; Kant tìm cách thúc đẩy tính tự quản của cá nhân đối mặt với những thể chế thiển cận và chuyên chế; Marx muốn giải phóng giai cấp công nhân khỏi cảnh nghèo nàn và lao dịch; những nhà nữ quyền ở mọi thời đại muốn cải thiện địa vị của phụ nữ. Không một ai trong số những người đó lại chỉ giải quyết những vấn đề rối rắm nhỏ nhặt (dù đôi khi do gặp phải chúng trên đường, họ cũng phải giải quyết chúng); họ bước vào cuộc tranh cãi với mục đích thay đổi chiều hướng của nền văn minh.
Người đọc hẳn nhận ra rằng tôi không có bất kì nỗ lực nào để định nghĩa triết học, mà chỉ ám chỉ rằng đó là một từ có nghĩa cực kì rộng, bao quát rất nhiều hoạt động của trí tuệ. Nhưng ít ra tôi sẽ cố gắng để nói lên rằng triết học là gì.
Cuốn sách này được gọi là một lược dẫn vào triết học. Nhưng tôi không thể dẫnbạn nhậpvào triết học, bởi lẽ bạn đã ở trong triết học rồi. Một cách đúng đắn, tôi cũng không thể dẫn bạn nhập vào triết học, bởi lẽ có quá nhiều triết lí. Cũng như tôi không thể ‘chỉ cho bạn thấy Luân Đôn’. Tôi có thể chỉ cho bạn vài mẩu nhỏ của nó, có thể là nhắc đến vài thứ hấp dẫn nhất của nó, và để mặc bạn với một tấm bản đồ thành phố và với vài thông tin về những chuyến tham quan thành phố có hướng dẫn. Đó gần như là điều tôi đề xuất để đến với triết học.
Cuối cùng, xin hãy đọc chậm rãi. Đây là một cuốn sách rất ngắn về một đề tài rất dài.
* Tác giả: Edward Craig; Dịch giả: Phạm Kiều Tùng; NXB Tri thức tháng 01/2011. Bài viết trên trích từ Lược dẫn ở Chương 1 của tác phẩm.