Trào lưu mới trong kiến trúc phật giáo Việt Nam
Giá trị to lớn của những di sản truyền thống đó đã nhận được sự quan tâm đặc biệt không chỉ của Nhà nước Việt Nam mà còn có sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế. Những di sản này cũng luôn có sự đánh giá của các nhà khoa học, các nhà chuyên môn và báo giới… Tuy nhiên, có một trào lưu kiến trúc đã ra đời từ hơn 100 năm qua, hiện vẫn đang tồn tại và phát triển với tốc độ ngày càng mạnh mẽ thì lại rất ít được nhắc đến.
Bài viết này chỉ là cách đặt vấn đề với một khía cạnh về kiến trúc chưa được quan tâm đúng mức: Đó là một trào lưu mới trong kiến trúc Phật giáo ViệtNam . Mặc dù loại hình kiến trúc này đã xuất hiện từ hơn 100 năm qua, nhưng phải gọi là trào lưu mới vì độ tuổi của chúng là “non trẻ” so với các kiến trúc đá và gỗ được xây dựng dưới các triều đại trước. Đặc biệt, về nguyên liệu và kỹ thuật xây dựng hoàn toàn mới so với kiến trúc truyền thống Việt Nam . Đó là những công trình kiến trúc được xây bằng gạch và bê-tông. Ở đây tạm gọi là trào lưu kiến trúc mới.
Sự ra đời của trào lưu kiến trúc mới
Trào lưu kiến trúc này bắt đầu từ khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và được định hình rõ dưới thời vua Khải Định (1916-1925). Đây là giai đoạn mà những xung đột giữa mớivà cũ,giữa Tâyvà ta,giữa phong kiếnvà cải cách… diễn ra rất gay gắt. Người Pháp lúc này với danh nghĩa của chính quyền bảo hộ đã đưa vào xã hội thuộc địa nhiều sản phẩm của “mẫu quốc văn minh” trong đó có ximăng, sắt Tây, ngói Tây và nhà Tây. Sau khi cung An Định, lăng Khải Định… (những công trình kiến trúc lớn theo trào lưu mới) được hoàn thành, người Việt Nam chợt nhận ra những ưu điểm nổi trội của loại kiến trúc này như: có thể xây được nhiều tầng, độ bền cao, kín đáo hơn, ít mối mọt hơn, v.v.. Tuy nhiên, ở thời điểm đó, các loại nguyên - vật liệu mới được đưa từ phương Tây đến rất đắt nên chỉ những công trình “của Tây” và một vài nhiệm sở quan trọng mới được xây theo kiểu “nhà Tây”. Dần dần, một trào lưu kiến trúc mới được hình thành từ những nguyên - vật liệu gọi là “Tây” nhưng đa phần sản xuất ở ta.
Ngoại trừ “nhà Tây” và một số nhiệm sở được thiết kế và xây dựng dưới sự giám sát của người Pháp, còn lại đa phần là nhà ở của dân và các công trình tôn giáo - tín ngưỡng đều do người Việt làm. Nhà ở của dân là sự kết hợp khéo léo giữa kiểu nhà trệt khung gỗ truyền thống với các loại vật liệu mới tạo thành một loại nhà gạch, kèo gỗ gác tường, lợp ngói đất nung. Cá biệt có một vài loại nhà lầu sàn gỗ của các thương gia, địa chủ nhiều tiền, còn hầu hết nhà dân đều có chung một mô típ là nhà trệt 3-5-7-9 gian với 2 mái lợp ngói hoặc tranh. Đối lập với hình thức nhà ở đơn giản của người dân, các công trình tôn giáo - tín ngưỡng thời kỳ này mà chủ yếu là chùa được đầu tư lớn và xây cất rất cầu kỳ. Với sự góp mặt của các loại vật liệu mới, các công trình này đã tạo nên một trào lưu mới trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam . Trào lưu này phát triển mạnh ở miền Nam Việt Nam , sau đó lan rộng ra miền Bắc và cả nước. Theo ước tính, những công trình kiến trúc Phật giáo được xây dựng theo trào lưu này đã chiếm đến quá nửa số ngôi chùa tháp và Phật viện ở Việt Nam tính đến nay. Có thể điểm qua một số công trình lớn như, cùa Vĩnh Tràng (Tiền Giang), chùa Thiên Lâm (Vũng Tàu), chùa Bà Đen (Tây Ninh), chùa Linh Sơn (Đà Lạt), Việt Nam Quốc tự (TP.Hồ Chí Minh), chùa Pháp Vân (Hà Nội), v.v… điều này cho thấy trào lưu mới trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam đã phát triển đến một giai đoạn cực thịnh. Vậy cần đánh giá về trào lưu này như thế nào? Đó là một công việc lớn không chỉ của các nhà hoạch định chính sách mà còn rất cần đến ý kiến của các nhà chuyên môn. Tuy nhiên, “vấn đề lớn” này cho đến nay vẫn hầu như chưa có ai đề cập tới. Bài viết này chỉ đưa ra một số ý kiến cá nhân mang tính chất gợi ý để được bàn luận cùng các nhà khoa học của các ngành có liên quan.
Ghi nhận về trào lưu kiến trúc mới trong nền kiến trúc Phật giáo Việt Nam
Có thể nói, sự phát triển của trào lưu mới trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam là một xu thế tất yếu của lịch sử vì những lí do sau:
Thứ I, nguồn nguyên liệu gỗ và đá truyền thống đã hầu như cạn kiệt do khai thác quá mức và bừa bãi.
Thứ II, nếu xét về tính thời đại thì thế kỷ XX là giai đoạn khởi đầu của “thời đại bê-tông”. Vì vậy mà những công trình bằng bê-tông của giai đoạn này được xem như những công trình mang tính “thời đại”.
Thứ 3, những công trình được xây dựng mới bằng vật liệu truyền thống trong giai đoạn hiện tại sẽ “ngốn” những khoản kinh phí khổng lồ. Chẳng hạn như Thái học đường ở Văn Miếu - Quốc Tử Giámsử dụng hết 26 tỷ đồng. Số tiền này đủ để xây dựng khoảng 30 công trình tương tự bằng bê-tông!
Thứ 4, độ bền của các kiến trúc gỗ (kể cả gỗ nhóm một như đinh, trai, sến, táu) cũng kém hơn so với độ bền của bê-tông.
Thứ 5, việc thi công các công trình bê-tông rất đơn giản nhưng lại đạt hiệu quả cao vì thời gian thi công rất ngắn so với các loại vật liệu truyền thống.
Thứ 6, nhu cầu về diện tích sử dụng ngày càng cao trong khi quỹ đất và kinh phí xây dựng chỉ có hạn…
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, không một loại nguyên - vật liệu nào có thể thay thế hoàn toàn được gạch, ngói, bê-tông trong xây dựng. Và có lẽ trong tương lai gần cũng vậy.
Vấn đề nhạy cảm nhất mà các công trình theo trào lưu mới gặp phải là yếu tố nghệ thuật, mà cụ thể là nghệ thuật điêu khắc vì chất liệu bê-tông không thể tạo ra những tác phẩm điêu khắc tinh tế như gỗ và đá. Tuy nhiên, với lợi thế về độ cứng nhưng lại có thể dùng khuôn đúc, chất liệu bê-tông đã dần gánh vác hầu hết “trách nhiệm” của cả gỗ và đá. Và “nghệ thuật tạo hình bê-tông” không chỉ được sử dụng trong xây dựng mà còn dùng trong trang trí kiến trúc và cả trong nghệ thuật đúc tượng. Đó chính là tiền đề để trào lưu mới trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
Với trào lưu này, nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Việt Nam đã có một bước chuyển lớn từ dạng kiến trúc truyền thống gần như giống hệt nhau trở thành một trào lưu kiến trúc mới với vô vàn cách biểu hiện khác nhau. Điều đáng ghi nhận ở những kiến trúc này là chúng được hình thành từ nhiều phong cách kiến trúc khác nhau tạo nên một hệ thống các công trình kiến trúc Phật giáo phong phú mà vẫn giữ được nét riêng trong bản sắc văn hoá Việt Nam . Đó là những nét kiến trúc truyền thống vận dụng linh hoạt vào các công trình mới, biểu hiện qua một số thành tố kiến trúc như bộ mái, tỷ lệ, hoa văn trang trí… đặc biệt, góc đao cong luôn là một điểm nhấn trong nhiều công trình kiến trúc Phật giáo. Chính những yếu tố này đã tạo nên một loạt những kiến trúc Phật giáo đẹp theo trào lưu mới.
Ở những công trình này, vẻ đẹp kiến trúc của chúng không chỉ gợi lại được những nét đặc sắc trong kiến trúc truyền thống Việt Nam mà còn sáng tạo thêm nhiều yếu tố như hình khối kiến trúc, bố cục mặt bằng, tổ chức không gian, v.v… Những yếu tố mới này đã góp phần tạo nên một loại hình kiến trúc hiện đại mà vẫn mang vẻ đẹp của kiến trúc truyền thống Việt Nam không hề lẫn lộn với các dòng kiến trúc Phật giáo lớn bên cạnh chúng ta như Trung Hoa, Ấn Độ, Thái Lan, Campuchia, Myanma,… hay với các kiến trúc tôn giáo khác. Thực tế cho thấy, trào lưu kiến trúc mới trong nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Việt Nam đã và đang khẳng định vai trò và vị trí của nó trong bối cảnh mới. Những đóng góp của trào lưu kiến trúc này với kiến trúc Phật giáo Việt Nam nói riêng và trong nền văn hoá Việt Nam nói chung là không nhỏ mà khuôn khổ một bài viết không thể khái quát hết. Hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều nhà chuyên môn quan tâm hơn đến trào lưu kiến trúc này.
Những “hạt sạn” cần được loại bỏ
Sự ra đời và phát triển của bất cứ một trào lưu nghệ thuật nào cũng đều có mặt phải và mặt trái. Mặt trái của trào lưu kiến trúc mới ở đây là sự lạm dụng một cách thái quá những đặc điểm của nguyên liệu, công nghệ… để “đẻ ra” những công trình kiến trúc phi nghệ thuật. Các kiến trúc sư có tâm huyết gọi đó là những quái thaicủa nền kiến trúc hiện đại được sản sinh ra từ các loại hội chứng như “hội chứng sùng cổ”, “hội chứng sùng ngoại”, “hội chứng sùng nhọn”, hay “hội chứng mái cong”… Đó là những loại hình nhà chóp hình chùa, hình “nhà hát lớn”, hình thánh đường Hồi giáo… Chủ nhân của những công trình này là những người “thừa tiền nhưng thiếu kiến thức”, họ tưởng rằng đó là “truyền thống”, là “cổ điển”… nhưng khi những “quái thai” đó được bê-tông hoá rồi thì họ chợt nhận ra “đứa con” dị dạng của mình nhưng không thể phá đi mà xây lại được. Những loại kiến trúc này có thể nhìn thấy đầy rẫy ở những khu “giãn dân”, khu quy hoạch mới và cả… khu “lấn chiếm” nhan nhản khắp nơi.
![]() |
| Toà tháp “chọc trời” trong vườn mộ chùa Trấn Quốc |
Giá trị của chùa Trần Quốc không chỉ ở các kiến trúc mà nó còn có giá trị đặc biệt ở cảnh quan thiên nhiên. Nằm giữa bốn bề sóng nước hồ Tây, chùa Trấn Quốc ẩn mình sau những lùm cây xanh mờ ảo trong sương mù của Dâm Đàm (tên cũ của hồ Tây có nghĩa là đầm Sương Mù). Sự cộng hưởng của kiến trúc truyền thống với cảnh quan thiên nhiên đã tạo cho chùa Trần Quốc một vẻ đẹp lý tưởng trong suốt quãng thời gian từ khi nó có mặt cho tới lúc toà tháp chọc trời mọc lên phá tan cái vẻ u tịch cổ kính vốn có.
Ngôi tháp này cao hơn 10 tầng, sừng sững án ngữ chính giữa khoảng không gian thanh bình của chùa Trần Quốc. Nó đối nghịch với cái tĩnh mịch của ngôi chùa, xé rách màn sương mờ ảo của hồ Tây ẩn hiện trong màu xanh cây lá bằng một màu vàng rợn, khê nồng. Nó ngạo nghễ ngoi lên khỏi khu vường mộ thâm nâu ẩn dưới vòm cây như thách thức với cái vẻ thanh bình vốn có của khu chùa… Rõ ràng một “tiếng đàn lạc điệu” đã phá tan “bản giao hưởng” tuyệt mỹ của kiến trúc truyền thống. Có thể coi đây là những hạt sạntrong nhiều hạt sạnđang “ cấu xé” vẻ đẹp của một thành phố cổ kính, thanh lịch, nhưng cũng mảnh mai, yếu đuối như một cô gái “liễu yếu đào tơ”.
Có lẽ không đâu thể hiện rõ như ở đây cái công thức: “nhiệt tình” cộng với “dốt nát” tại ra “phá hoại”. Sự góp mặt của bê-tông, vật liệu mới, công nghệ mới và trào lưu kiến trúc mới mà không có sự đóng góp “chất xám” của các kiến trúc sư và các nhà khoa học đã tạo nên một sự tàn phá nhanh hơn bất cứ loại giặc giã và thiên tai nào từng có. Bằng chứng là hàng trăm ngôi chùa cổ đang “rên xiết” dưới “ách bê-tông” của các công trình lấn chiếm xung quanh và cả trong khuôn viên chùa. Ở Hà Nội có duy nhất một ngôi chùa không thể bị lấn chiếm thì lại bị “phá từ giữa ra”, đó là chùa Trấn Quốc. Đã đến lúc Nhà nước cần phải có một chế tài cụ thể để bảo vệ các di tích này, nếu không chúng sẽ bị mặt trái của trào lưu kiến trúc mới phá nát. Nên chăng, chỉ cho phép xây dựng các kiến trúc theo trào lưu mới tách biệt với cảnh quan của các di tích, đặc biệt là các di tích quốc gia? Nên chăng, mọi công trình kiến trúc Phật giáo theo trào lưu mới phải có sự góp mặt của các kiến trúc sư và các nhà chuyên môn? Hy vọng những câu hỏi này sẽ sớm có lời giải đáp.
Có thể thấy rằng trào lưu nghệ thuật nào rồi cũng có lúc chấm dứt hoặc thay đổi, chỉ có nghệ thuật đích thực là tồn tại với thời gian. Một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cho dù được làm bằng chất liệu gì và ở thời đại nào cũng sẽ được đánh giá bằng sự đóng góp của nó đối với nền văn minh của nhân loại. Trào lưu mới trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam sẽ tồn tại 100 năm hay 1.000 năm nữa? Điều đó không ai có thể trả lời được. Chỉ biết rằng những đóng góp tích cực của nó bằng những công trình có giá trị nghệ thuật cao sẽ được lịch sử ghi nhận và những sự “phá hoại” nào do nó gây ra sẽ bị lịch sử lên án. Tuy nhiên, đã bước vào thế kỷ XXI, con người có đủ khả năng để vẽ ra tất cả những ý tưởng của mình bằng những phương tiện hiện đại. Trong một điều kiện như vậy, chúng ta không nên để cho những “quái thai” của kiến trúc mới ra đời. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi chính quyền có những biện pháp mạnh tay trên cơ sở hoạch định của các nhà chuyên môn. Có như vậy thì trào lưu mới trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam mới thực sự trở thành động lực để phát triển một nền kiến trúc Phật giáo Việt Nam hiện đại trong định hướng xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc như nghị quyết Trung ương V khoá 8 đã đề ra.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 77, 4/2005








