Trại Trạng Nguyên - Chính sách khuyến học độc đáo của Vương triều Trần đối với Thanh - Nghệ - Tĩnh
1. Sự phát triển của giáo dục khoa cử Nho học dưới thời Trần có 3 biểu hiện cơ bản:
Một là,nhà Trần có những quy định ngày càng chặt chẽ, quy củ đối với chế độ giáo dục khoa cử, nhằm đào tạo đội ngũ Nho sĩ có đủ đức, tài để bổ sung vào bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương. Sử cũ cho biết, chỉ sau 6 năm củng cố địa vị thống trị của Vương triều Trần, vào năm 1232, vua Trần Thái Tông đã mở khoa thi Thái học sinh đầu tiên của triều đại mình. Những người đỗ cao được lấy theo ba giáp. Trong khoa thi này, "đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm; đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu; đệ tam giáp là Trần Chu Phổ”1. Việc phân chia thành ba giáp để lấy người đỗ đạt là biểu hiện đầu tiên của sự phát triển về phép tắc, lề lối thi cử cao hơn so với nhà Lý trước đó. Mùa thu năm 1246, nhà Trần lại "định lệ thi tiến sĩ, cứ 7 năm một khoa". Tiếp đó, năm 1247, vua Trần Thái Tông đặt ra lệ Tam khôi lấy ba người đỗ đầu. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục khoa cử Nho học Việt Nam xuất hiện các danh hiệu Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa2. Đến năm Giáp Thìn (1304) đời vua Trần Anh Tông, nội dung thi cử được quy định rõ ràng, cụ thể. Phép thi phải trải qua 4 kì: Kỳ 1 thi ám tả để loại bớt những thí sinh không đủ tiêu chuẩn; kì 2 thi kinh nghĩa, thi, phú; kì 3 thi chiếu, chế, biểu; kì 4 thi đối sách3. Đi đôi với việc quy định nội dung của các kì thi, nhà Trần cũng chỉ rõ tài liệu học tập chủ yếu của sĩ tử là những sách như Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử4... Có thể nói, những quy định về phép tắc khoa cử của Vương triều Trần đã đặt nền móng hết sức cơ bản để sau này giáo dục khoa cử Nho học hoàn thiện và đạt đến đỉnh cao vào thời Lê sơ.
Hai là, đội ngũ trí thức được đào luyện trong môi trường giáo dục khoa cử Nho học càng ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và trong bộ máy nhà nước. Trong giai đoạn đầu nhà Trần, trí thức Phật học còn chiếm vị trí chủ yếu. Đến khi Nho học bắt đầu phát triển, nhà Trần có những chính sách trọng dụng Nho sĩ, từ đó thay thế dần tầng lớp trí thức Phật học. Những người đỗ đạt được bổ vào các đoàn sứ thần sang Trung Hoa và giữ các chức vụ trong cơ quan chính quyền trung ương. Lịch sử bang giao giữa nước ta và Trung Hoa còn ghi lại những tấm gương tiêu biểu của các sứ thần Đại Việt như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn,… Với vốn hiểu biết sâu rộng, họ vừa thi thố tài năn
g đối đáp khiến cho vua quan, trí thức Nho học phương Bắc phải nể phục, vừa thể hiện lòng yêu nước và tinh thần dân tộc mạnh mẽ. Hầu hết những người đỗ cao trong các kì thi dưới triều Trần đều được trọng dụng. Ngay trong khoa thi Thái học sinh đầu tiên vào năm Nhâm Thìn (1232), những người đỗ đạt đều được bổ vào các chức vụ quan trọng; chẳng hạn như Trương Hanh, đỗ thứ nhất Đệ nhất giáp làm quan đến chức Thượng thư, Lưu Diễm đỗ thứ hai Đệ nhất giáp làm quan Đông các Đại học sĩ, Trần Chu Phổ, Đệ tam giáp, làm quan đến chức Tư đồ, tước Phụ Quốc công5.
Ba là, Nho học trong nhân dân bắt đầu phát triển. Nhiều tư liệu cho chúng ta biết, trong thời kì đầu của nhà Trần, chùa chiền vừa là nơi thờ tự vừa là trường học dạy chữ cho con em địa phương. Nhà sư vừa thực hiện các hoạt động tôn giáo vừa là thầy dạy học. Về sau, có nhiều nhà nho, nhiều thái học sinh không ra làm quan hoặc từ quan về nhà mở lớp dạy học trò8. Hiện nay, chưa có tư liệu chính xác về số lượng người đi học, nhưng việc nhà Trần bắt đầu tổ chức các kỳ thi Hương ở địa phương, "cứ năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội", chứng tỏ rằng giáo dục Nho học không chỉ phát triển ở kinh thành và các khu vực lân cận mà còn mở rộng ra nhiều địa phương khác trong cả nước.
2. Trong những chính sách phát triển giáo dục, khoa cử Nho học, việc nhà Trần đặt ralệ lấy 2 trạng nguyên, trong đó trạng nguyên trại dành cho các sĩ tử từ Thanh - Nghệ - Tĩnh trở vào là một hiện tượng đáng chú ý, hiếm gặp trong lịch sử khoa cử Việt Nam, kể cả khoa cử Nho học Trung Hoa. Rõ ràng đây là một động thái khuyến học rất độc đáo không chỉ nhằm thúc đẩy việc học, việc thi ở vùng đất xa kinh thành mà còn ẩn chứa ý nghĩa sâu xa đối với khu vực có một địa thế hết sức quan trọng, là biên trấn phía Nam của quốc gia Đại Việt.
Giáo dục, khoa cử Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc mô hình giáo dục Nho học Trung Hoa cả về nội dung lẫn hình thức. Nho học Trung Hoa có từ thời nhà Tùy (năm 587), nhưng mãi đến nhà Đường (622) mới đặt ra các danh hiệu trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa (Trạng nguyên đầu tiên của Trung Hoa là Tôn Phục Già, đời nhà Đường). Trạng nguyên là danh hiệu dành cho người đỗ cao nhất trong các kỳ thi Nho học. Vì vậy, theo lệ thường, mỗi khoa thi chỉ lấy 1 trạng nguyên. Đó là chưa kể đến nhiều khoa thi không lấy được trạng nguyên. Trong lịch sử giáo dục, khoa cử Trung Hoa hàng ngàn năm, mỗi khoa thi cũng chỉ lấy 1 trạng nguyên. Duy chỉ có nhà Nguyên, do đặc thù của triều đại này, đã tổ chức 16 khoa thi nhưng lấy 32 trạng nguyên. Nhà Nguyên chia khoa thi thành hai ban tả hữu dành cho người Hán và người Mông Cổ, mỗi ban lấy đỗ 1 trạng nguyên. Lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam cũng tương tự. Theo Vũ Xuân Thảo, từ năm 1075 đến năm 1919, tổng cộng có 185 khoa thi với 2.898 người đỗ đại khoa, trong đó chỉ có 47 trạng nguyên7. Như vậy, kể từ khoa thi đầu tiên có danh hiệu trạng nguyên (1247), mỗi khoa chỉ lấy đỗ 1 trạng nguyên, trừ hai khoa Bính Thìn (1256) và Bính Dần (1266) dưới thời nhà Trần.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, việc đặt ra lệ lấy trại trạng nguyên thể hiện sự "ưu đãi" của nhà Trần dành cho vùng đất xa kinh thành từ Thanh Hoá trở vào hoặc để phân định cao thấp về trình độ giữa kinh và trại trạng nguyên. Nhận định này chưa hẳn đã chính xác. Mục đích khuyến học của nhà Trần đối với các địa phương này là hết sức rõ ràng: Thay bằng việc lấy 1 trạng nguyên như lệ thường, tại hai khoa thi Bính Thìn (1256) và Bính Dần (1266), nhà Trần lấy 2 trạng nguyên dành cho 2 khu vực khác nhau. Cả hai trạng nguyên đều là những người đỗ cao nhất, đều phải trải qua cùng một kỳ thi với những quy định khắt khe như nhau. Chưa có một tài liệu nào cho thấy nhà Trần đã tổ chức hai kỳ thi khác nhau về yêu cầu, mức độ, nội dung dành riêng cho khu vực lân cận kinh thành và khu vực từ Thanh - Nghệ - Tĩnh trở vào. Hơn nữa, lấy kinh thành Thăng Long làm trung tâm thì không phải chỉ riêng Thanh - Nghệ - Tĩnh trở vào là "vùng sâu, vùng xa" để ưu đãi. Vậy thì, theo chúng tôi, đằng sau mục đích khuyến học, việc đặt ra lệ lấy trại trạng nguyên còn có một mục đích khác, sâu xa hơn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của nhà Trần không chỉ đối với vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh mà còn đối với quốc gia, dân tộc.
Từ thời kỳ sơ sử, Thanh - Nghệ - Tĩnh là một bộ phận không thể tách rời của quốc gia Văn Lang và sau đó là quốc gia Âu Lạc. Đến đời Lý, với chính sách khẩn hoang, triều đình đã cho người trong hoàng tộc vào đẩy mạnh khai khẩn vùng đất đầy tiềm năng này. Đến đầu nhà Trần, Thanh - Nghệ - Tĩnh vẫn có thể coi là vùng "đất mới". Vừa là đất mới, vừa là khu vực mà Nho giáo khó bén rễ nên Nho học ở đây chưa thể phát triển được. Danh hiệu "trạng nguyên trại" là một yếu tố cần thiết kích thích việc học hành thi cử. Nhờ đó, vào giữa thế kỷ XIII, như nhiều tài liệu cho biết, giáo dục khoa cử Nho học từ Thanh - Nghệ - Tĩnh trở vào bắt đầu phát triển, số người đỗ đạt tăng lên. Điển hình như Trương Xán, người xã Hoành Bồ, huyện Hoành Sơn (Quảng Bình), đỗ trại trạng nguyên khoa thi Bính Thìn niên hiệu Nguyên Phong 6 (1256); Bạch Liêu người làng Nguyễn Xá, huyện Đông Thành (Nghệ An) đỗ trại trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Bính Dần niên hiệu Thiệu Long 9 (1266). Bộ quốc sử chính thống cũng phải dành một câu để ca ngợi ông: "Liêu người Nghệ An, tính thông minh nhớ lâu, đọc sách 10 dòng một lúc"8. Do đó, đến khoa thi năm Ất Hợi (1275) triều đình không còn chia trạng nguyên kinh và trại nữa mà "hợp làm một" vì "không cần nữa". Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý là, tính từ sự kiện năm Ất Dậu (1225) đến khoa thi đầu tiên lấy trại trạng nguyên (1256) chỉ mới 20 năm. Phải chăng, nhà Trần muốn thông qua danh hiệu trại trạng nguyên để thu phục nhân tâm ở vùng "đất mới" Thanh - Nghệ - Tĩnh trở vào, nơi mà công lao khai dân lập ấp của nhà Lý chưa dễ bị mai một? Từ đó nhà Trần có điều kiện khuyếch trương “vương hóa” và khẳng định địa vị chính thống của triều đại mình tại vùng đất xa xôi này. Nhờ kết quả của chính sách khôn khéo ấy mà vua Trần Nhân Tông có đủ cơ sở để đặt niềm tin vào nhân tài, vật lực của vùng đất này khi vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc trong cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên lần thứ hai:
Cối Kê cựu sự quân tu ký
Hoan Diễn do tồn thập vạn binh
Nhìn chung, vào thời nhà Trần, Thanh - Nghệ - Tĩnh là đất "biên viễn" về phía Nam của quốc gia Đại Việt. Việc củng cố tiềm lực cho vùng đất có vị thế "then khóa” của quốc gia chắc chắn là mối quan tâm không chỉ riêng của một triều đại nào. Việc nhà Trần "ưu đãi" cho các địa phương này là lẽ đương nhiên. Thế nhưng, vào những năm cuối thế kỷ XIII, tính chất "biên trấn" của Thanh - Nghệ - Tĩnh không còn đậm nét như trước, nhất là sau sự kiện vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân vào năm 1306. Chế Mân dâng Châu Ô và Châu Lý cho Đại Việt làm đồ sính lễ. Nhà Trần đổi tên Ô, Lý thành Thuận Châu, Hóa Châu rồi đặt quan cai trị, đẩy xa biên giới quốc gia đến phía Bắc đèo Hải Vân ngày nay. Thêm vào đó, Thanh - Nghệ - Tĩnh lúc này đã phát triển không thua kém gì khu vực đồng bằng sông Hồng, nên việc dành danh hiệu trại trạng nguyên cho nó thực sự là "không cần nữa".
Vương triều Trần để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc không chỉ bằng võ công oai hùng chống giặc ngoại xâm mà còn trên nhiều lĩnh vực khác của văn hóa dân tộc. Chỉ riêng việc đặt ra lệ lấy trại trạng nguyên, bên cạnh chính sách "khuyến học" độc đáo còn để lại cho hậu thế bài học sâu sắc: Giáo dục đào tạo luôn song hành với củng cố khối đoàn kết toàn dân tộc, luôn gắn liền với công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước²
Chú thích
(1) Lê Tắc trong An Nam chí lược đã nhầm khi cho rằng những danh hiệu này có từ thời Lý.
(2) Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd
(3) Theo GS.Trương Hữu Quýnh, GS. Đinh Xuân Lâm, PGS. Lê Mẫu Hãn: Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb Giáo dục, HN, 2001
(4) Theo Ngô Đức Thọ (chủ biên): Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 - 1919), Nxb Văn học, HN, 1993
(5) Theo GS.Trương Hữu Quýnh, GS.Đinh Xuân Lâm, PGS.Lê Mẫu Hãn: Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, Sđd
(6) Vũ Xuân Thảo: Vài số liệu, tư liệu chưa chính xác trong cuốn “Những ông Nghè, ông Cống triều Nguyễn”, Tạp chí Xưa và Nay số 67, tháng 9 - 1999
(7) Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.487.
(8) Theo bộ Quốc sử chính thống
Tài liệu tham khảo
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2004.
2. GS.TS. Phan Ngọc Liên: Giáo dục và thi cử Việt Nam (trước Cách mạng tháng Tám 1945), Nxb Từ điển Bách khoa, HN, 2006.
3. GS. Trương Hữu Quýnh, GS. Đinh Xuân Lâm, PGS. Lê Mậu Hãn: Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb Giáo dục, HN, 2001.
4. Vũ Xuân Thảo: Vài số liệu, tư liệu chưa chính xác trong cuốn "Những ông nghè ông cống triều Nguyễn", Tạp chí Xưa và Nay số 67, tháng 9 năm 1999.
5. Ngô Đức Thọ (chủ biên): Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919), Nxb Văn học, HN, 1993.
6. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên): Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 - 1945¸ Nxb Giáo dục, HN, 1996.








