Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 20/09/2010 18:32 (GMT+7)

Tổng quan về xã hội Việt Nam trong quá trình đổi mới để phát triển và hội nhập quốc tế

1. Trước khi đi vào trình bày chủ đề nêu trên, chúng tôi thấy cần làm rõ ngữ nghĩa của mấy từ khóa (Key words) sẽ được sử dụng trong bài viết:

- Một là "xã hội"

Mọi người đều biết, từ xã hội có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, xã hội là từ dùng để chỉ một hình thái xã hội nhất định với tất cả các yếu tố cấu thành của nó, bao gồm cơ sở kinh tế, cơ cấu xã hội, kiến trúc thượng tầng chính trị, đời sống văn hóa. Còn theo nghĩa hẹp, từ xã hội dùng để chỉ lĩnh vực xã hội trong tương quan với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội tổng thể.

Với cách hiểu như thế, việc nghiên cứu xã hội Việt Nam một mặt đòi hỏi phải phân biệt nó với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa; mặt khác lại phải đặt nó trong mối quan hệ tác động qua lại với các lĩnh vực trên, đặc biệt là mối quan hệ tương tác giữa kinh tế và xã hội.

- Hai là "phát triển xã hội"

Phát triển xã hội có thể được hiểu là sự vận động, biến đổi theo hướng tiến bộ, hợp quy luật, thuận lòng người của cơ cấu xã hội, các thiết chế xã hội, việc giải quyết các nhu cầu của đời sống con người trong xã hội và các mối quan hệ xã hội của con người.

- Ba là "hội nhập quốc tế"

Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực xã hội là tham gia ký kết và thực hiện các công ước quốc tế về xã hội, vận dụng các tiêu chí của quốc tế để đo trình độ phát triển xã hội của mình, mở rộng hợp tác quốc tế về lĩnh vực phát triển xã hội và đóng góp sáng kiến, kinh nghiệm của mình cho việc giải quyết những vấn đề xã hội chung của cộng đồng quốc tế.

Dĩ nhiên, trên đây chưa phải là những định nghĩa khoa học về các khái niệm có liên quan mà chỉ là những định nghĩa làm việc (working defenitions), bảo đảm cho tính nhất quán của những vấn đề sẽ được đề cập đến sau đây:

- Nhìn lại tình hình xã hội Việt Nam trước thời kỳ đổi mới.

- Những chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực phát triển xã hội từ 1986 đến nay.

- Những thành tựu đã đạt được.

- Những yếu kém, bất cập còn lại.

- Một số kiến nghị nhằm góp phần thúc đẩy xã hội Việt Nam tiếp tục phát triển và hội nhập ngày càng sâu với thế giới.

2. Nhìn lại thời kỳ trước đổi mới (từ cuối những năm 70 - giữa những năm 80 của thế kỷ trước), do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do những sai lầm mang nặng tính chủ quan, duy ý chí trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một mô hình cũ đã lỗi thời, cho nên chỉ mấy năm sau khi hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thì Việt Nam đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.

Sản xuất nông - công nghiệp đình đốn. Lưu thông, phân phối ách tắc. Lạm phát ở mức ba con số. Đời sống của các tầng lớp nhân dân sa sút chưa từng thấy. Ở thành thị, lương tháng của công nhân, viên chức chỉ đủ sống 10 -15 ngày. Ở nông thôn, vào lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình nông dân thiếu ăn. Tiêu cực xã hội lan rộng. Lòng dân không yên.

Tình hình diễn biến đến mức, vào khoảng từ cuối năm 1985 đến cuối năm 1986, nghĩa là sau thất bại của cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền (9-1985), đại đa số quần chúng nhân dân cảm thấy không thể tiếp tục sống như cũ được nữa; đồng thời các cơquan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước cũng thấy rõ không thể tiếp tục duy trì những chủ trương, chính sách đã lỗi thời, hoặc chỉ thay đổi có tính chất chắp vá, nửa vời một số chính sách riêng lẻ nào đó thôi.

3. Với phương châm "nhìn thẳng vào sự thật", Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm đã qua và đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, dần đi vào thế ổn định và phát triển. Từ sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu. Trước những vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất coi trọng tổng kết thực tiễn ở trong nước, đồng thời mở rộng tầm nhìn ra bên ngoài, tham khảo và tiếp thu những kinh nghiệm hay của thế giới để không ngừng bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Riêng trên lĩnh vực phát triển xã hội, những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là:

- Nêu cao vai trò của chính sách xã hội, xem trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế.

- Có cơ chế, chính sách hỗ trợ để người lao động tự tạo ra việc làm cho mình và cho người khác. Khuyến khích làmg giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Coi một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển.

- Tôn trọng lợi ích chính đáng của mọi giai tầng xã hội, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.

- Xem giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo.

- Đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chiến lược, chương trình, kế hoạch, dự án phát triển; tạo điều kiện cho ai nấy đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.

Trong quá trình tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách nêu trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định lấy đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời coi trọng đổi mới chính trị, xã hội, văn hóa với những bước đi và hình thức phù hợp.

4. Kết quả là sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam hơn 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, mà ở đây chỉ tập trung trình bày những thành tựu về phát triển xã hội, thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:

- Cùng với sự biến đổi của cơ cấu xã hội, mà then chốt là cơ cấu xã hội - giai cấp, tính năng động xã hội của mọi tầng lớp dân cư được phát huy, đời sống của đại đa số người dân trong nước được cải thiện.

Ở thời kỳ trước đổi mới, do chủ trương đẩy mạnh cải tạo tất cả các thành phần kinh tế gọi là phí xã hội chủ nghĩa để nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế "thuần nhất" dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức quốc doanh và tập thể, kéo theo sự ra đời của một cơ cấu xã hội giản đơn, gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp tri thức xuất thân từ công nông (gọi tắt là "hai giai, một tầng"). Khi chuyển sang thời kỳ đổi mới, cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức, thì cơ cấu xã hội đã biến đổi theo hướng ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Cơ cấu đó giờ đây không còn bó hẹp trong khuôn khổ "hai giai, một tầng" nữa mà bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp doanh nhân, tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ, chủ trang trại và một số nhóm khác... Ngay trong từng giai cấp, tầng lớp xã hội cũng diễn ra sự phân tầng về nghề nghiệp, trình độ học vấn, chuyên môn và thu nhập. Có cả những nhóm vượt trội và những nhóm yếu thế.

Thực tế đã chứng tỏ, sự biến đổi của cơ cấu xã hội theo hướng kể trên thật sự là một sự "cởi trói" lớn, giải phóng sức sản xuất trong dân, khiến cho từng người, từng gia đình dù thuộc bất cứ giai tầng xã hội nào cũng phải tìm mọi cách khai thác các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật, kiến thức và kinh nghiệm làm ăn để thoát đói, vượt nghèo, vươn lên làm giàu cho mình và góp phần xây dựng đất nước. Chính tính năng động xã hội ấy dường như là một "phép lạ" đã có tác dụng nhanh chóng đẩy lùi tình trạng suy thoái, trì trệ ở thời kỳ bao cấp trước đây và thổi luồng sinh khí mới làm chuyển biến rõ rệt tình hình sản xuất và đời sống ở cả thành thị và nông thôn. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê, đã có khoảng 80-85% gia đình tự đánh giá có mức sống khó lên so với trước. Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người đã tăng từ 200 USD năm 1990 lên 1.024 USD năm 2007, năm 2008.

- Kết quả phát triển kinh tế những năm qua đã cho phép Nhà nước huy động được thêm các nguồn lực để tăng đầu tư cho phát triển xã hội. So với khuyến nghị của Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển xã hội họp ở Copenhagen, Đan Mạch (tháng 3-1995), mỗi nước nên dành 20% ngân sách hàng năm cho việc giải quyết những vấn đề xã hội, thì từ 1996 đến nay, trung bình mỗi năm Chính phủ Việt Nam đã dành tới 24-26% ngân sách Nhà nước để chi cho các chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, phát triển giáo dục, phát triển y tế, xây dựng mạng lưới an ninh xã hội, bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội...

- Đáng chú ý là nhận thức của xã hội về việc làm và giải quyết việc làm đã có sự chuyển biến đáng kể. Từ chỗ bao cấp toàn bộ trong giải quyết việc làm, Nhà nước đã chuyển trọng tâm sang xây dựng pháp luật (Bộ Luật Lao động 1994), tạo lập cơ chế, chính sách nhằm hướng dẫn và hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm mới. Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1-1,2 triệu người có công ăn việc làm; từ 2001 đến 2007, con số đó tăng lên 1,4 - 1,5 triệu người. Ngoài ra, mỗi năm Việt Nam còn đưa khoảng 70.000 người đi xuất khẩu lao động tại một số nước trong khu vực và trên thế giới. Để hội nhập với thế giới về chính sách lao động, trong những năm qua Việt Nam đã lần lượt ký kết và thực hiện các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng về quyền lao động như: xóa bỏ lao động cưỡng bức, xóa bỏ phân biệt trong tuyển dụng và nghề nghiệp, xóa bỏ hình thức lao động trẻ em.

- Cuộc vận động xóa đói giảm nghèo do thành phố Hồ Chí Minh khởi xướng từ năm 1992 đã nhanh chóng lan toả ra phạm vi cả nước. Năm 1995, Báo cáo của Chính phủ Việt Namtại Hội nghị Thượng đỉnh Copenhagen về phát triển xã hội đã khẳng định xóa đói giảm nghèo là một chính sách quốc gia quan trọng. Tiếp đó, Chính phủ lại xây dựng và ban hành Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo 2001-2010. Văn bản chiến lược này là căn cứ quan trọng để phát huy mọi nguồn lực ở trong nước, đồng thời cũng là cơ sở để các nhà tài trợ quốc tế hỗ trợ Việt Nam phát triển kinh tế và giảm nghèo.

Kết quả tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam, theo chuẩn quốc gia, đã giảm từ 30% năm 1992 xuống còn gần 7% năm 2005. Mấy năm gần đây, khi áp dụng chuẩn nghèo quốc gia mới, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 18% đầu năm 2006 xuống gần 15% cuối năm 2007. Còn theo chuẩn nghèo quốc tế, do Ngân hàng Thế giới phối hợp với Tổng cục Thống kê Việt Nam tính toán, thì tỷ lệ nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002 và 22% năm 2005. Như vậy, Việt Nam đã "hoàn thành sớm hơn 10 năm so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015", mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) của Liên hợp quốc đã đề ra.

- Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình đào tạo và đang được tiếp tục đổi mới, chấn chỉnh về mục tiêu, nội dung và phương pháp để nâng cao chất lượng dạy và học. Năm 2000, cả nước đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Tính đến cuối năm 2007, có trên 40 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập THCS. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 85% cuối những năm 1980 lên trên 90% năm 2005. Từ năm 2001 đến nay, trung bình hàng năm quy mô đào tạo nghề cho người lao động tăng 10%, quy mô đào tạo cao đẳng, đại học tăng 7,4%. Những sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay tiền với lãi suất ưu đãi để theo học. Hợp tác quốc tế về đào tạo ở bậc đại học ngày càng được mở rộng.

- Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số - kế hoạch hóa gia đình thời kỳ 1991 - 2000 được thực hiện tốt đã đưa tỷ lệ tăng dân số giảm từ 2,1% xuống 1,35%. Với thành tích này, Việt Nam đã được Liên hợp quốc tặng giải thưởng về công tác dân số. Sau đó, do chủ quan thỏa mãn, tỷ lệ tăng dân số đã nhích lên 1,44% vào năm 2004. Mấy năm gần đây, tỷ lệ tăng dân số giao động giữa 1,15% và 1,17%.

- Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Áp dụng các tiêu chỉ của UNICEF, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 42% năm 1995 xuống còn 25% năm 2005. Trong cùng thời gian, tỷ lệ tỷ vong của trẻ em dưới 1 tuổi giảm tương ứng từ 68xuống còn 18trẻ em để sống. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện. Một số dịch bệnh hiểm nghèo được thanh toán. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 73,7 tuổi năm 2005.

- Theo đánh giá của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam có xu hướng tăng đều đặn và liên tục trong mấy chục năm qua: từ 0,590 năm 1985, lần lượt tăng lên 0,620 năm 1990, 0,672 năm 1995, 0,711 năm 2000 và 0,733 năm 2005.

Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2005 vượt lên 18 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 123 trên tổng số 177 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 105/177. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn so với một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam.

Có thể thấy rõ điều đó qua bảng sau đây:

Bảng 1: So sánh chri số HDI của Việt Nam và một số nước khác trên thế giới năm 2005.

Chỉ số về từng lĩnh vực

Tên nước

Giá trị HDI

Tuổi thọ trung bình 2005

Tỷ lệ biết chữ ở người lớn 1995-2005

GDP bình quân đầu người theo PPP 2005

Xếp hạng HDI trong số 177 nước

Xếp hạng GDP/người (USD PPP) trừ đi xếp hạng HDI

Angiêri

0,733

71,7

69,9

7.062

104

-22

Việt Nam

0,733

73,7

90,3

3.071

105

18

Inđônêxia

0,728

69,7

90,4

3.843

107

6

Ai Cập

0,708

70,7

71,4

4.337

112

-1

NamPhi

0,674

50,8

82,4

11.110

121

-65

Ấn Độ

0,619

63,7

61,0

3.452

128

-11

Có quan hệ với chỉ số phát triển con người, chỉ số phát triển liên quan đến giới (GDI) của Việt Nam năm 2005 là 0,732, xếp thứ 91 trên 157 nước được thống kê. Số phụ nữ là đại biểu Quốc hội năm 2007 là 25,8% so với 17,7% năm 1990.

- Ngoài ra, việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với những người có công (những gia đình liệt sĩ, những bà mẹ Việt Nam anh hùng), chăm sóc những trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ, cưu mang những người tàn tật, nuôi dưỡng những người già cô đơn, cứu trợ đồng bào ở những vùng bị thiên tai.... đã được cả Nhà nước và cộng đồng xã hội hết sức quan tâm.

Nhìn chung, sau gần 10 năm đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, và từ năm 1996 đã bước sang giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

5. Song để biến mục tiêu đó thành hiện thức, Việt Nam còn phải nỗ lực phấn đấu khắc phục không ít yếu kém, bất cập:

- Những năm gần đây tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, tình trạng tái nghèo có xu hướng chậm lại, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường bị thiên tai, dịch bệnh, và từ cuối năm 2007 đến nay lại chịu tác động mạnh bởi suy thoái kinh tế trên thế giới và lạm phát tăng cao ở trong nước. Tính theo chuẩn quốc tế, đến cuối năm 2007, tỷ lệ nghèo chung của cả nước còn khoảng 18% tương đương 15 - 16 triệu người trong tổng số trên 85 triệu dân. Khoảng cách thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất trong tổng số dân cư đã tăng từ 4,43 lần năm 1992-1993 lên 8,14 lần năm 2006. Như vậy, xóa đói giảm nghèo, giúp cho người nghèo vươn lên trung bình và khá giả vẫn còn là một thách thức lớn đối với triển vọng phát triển xã hội của Việt Nam .

- Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm từ 8-9% vào đầu những năm 1990 xuống còn trên 5% năm 2007, nhưng từ đầu năm 2008 đến nay lại đang có xu hướng gia tăng do nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất kinh doanh, giảm bớt việc làm để đối phó với lạm phát và giá cả leo thang. Đặc biệt, trong nông thôn nạn thiếu việc làm khá nghiêm trọng Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng trong độ tuổi ở nông thôn hiện nay chỉ đạt khoảng 80%. Những năm gần đây. việc thu hồi đất đai để xây dựng khu công nghiệp, mở rộng đô thị được thực hiện một cách ồ ạt ở không ít địa phương đã khiến cho một bộ phận nông dân bị mất đất canh tác mà không được đền bù thoả đáng. không được hỗ trợ đào tạo để chuyên sang các nghề phi nông nghiệp nên lại càng làm tăng thêm tỷ lệ thiếu việc làm và thất nghiệp ở nông thôn.

- Trong lĩnh vực giáo dục: nội dung chương trình giảng dạy và học tập vừa quá tải vừa lạc hậu; cơ cấu ngành nghề đào tạo thiếu cân đối, phương pháp dạy và học cũ kỹ, chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo ra nói chung còn

thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Còn tồn tại một sư chênh lệch khá rõ về điều kiện học tập, cơ sở trường lớp giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi. Tỷ lệ học sinh: sinh viên là con em các gia đình nghèo đi học đúng tuổi và học lên các cấp học cao đang có xu hướng giảm dần

- Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế tuy được mở rộng, nhưng trang bị còn thiêu thốn, phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho dân. Cơ chế chính sách bảo biếm y tế, thu viện phí và khám chữa bệnh cho người nghèo còn nhiều bất cập. Ước tính mỗi năm có hàng vạn người nghèo phải vay lãi bán gia cầm, gia súc hoặc tài sản cố định để trả viện phí . Vì thế, đối với người nghèo bị bệnh, nhất là các bệnh nặng đòi hỏi dịch vụ y tế chất lượng cao, là một rủi ro có thể đẩy họ vào bần cùng.

- Bên cạnh đó, nhiều vấn đề xã hội nhức nhối do mặt trái của kinh tế thị trường đẻ ra, đặc biệt khi vai trò quản lý của Nhà nước còn yếu khi việc thực thi kỷ cương phép nước chưa nghiêm, là tệ tham nhũng, buôn lậ, kể cả buôn bán phụ nữ và trẻ em, l ànhững tệ nạn xã hội khác như bạo lực gia đình, ma túy), mại dâm, kéo theo sự lây lan của bệnh HIV-AIDS... vẫn đang diễn biến phức tạp ở nhiều nơi. Tại một số thành phố lớn và khu công nghiệp tập trung, ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng và trở thành vấn đề xã hội bức xúc.

6. Từ những điều nói trên, một câu hỏi có ý nghĩa quan trọng được đặt ra đối với giới nghiên cứu lý luận và giới hoạt động thực tiễn của Việt Nam hiện nay là cần phải làm gì và làm thế nào để góp phần phát huy những thành tựu đã đạt được khắc phục những yếu kém còn lại của quá trình phát triển xã hội theo hướng tiến bộ, công bằng và hội nhập với thế giới.

Thật ra không có câu trả lời dễ dàng và giản đơn cho câu hỏi được đặt ra trên đây. Tuy vậy, căn cứ vào những kinh nghiệm thực tế, ca thành công và hạn chế, cua sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hơn 20 năm qua, đồng thời tham khảo kinh nghiệm thế giới, chúng tôi thử đề xuất một số kiến nghị có tính chất hệ quan điểm về phát triển xã hội và hội nhập quốc tế của nước ta trong thời gian tới như sau:

Thứ nhất,phát triển xã hội và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững. Bởi lẽ chỉ có một nền kinh tế như thế thì mới có khả năng huy động các nguồn lực vật chất cho phát triển xã hội theo hướng tiến bộ và công bằng để hội nhập ngày càng sâu với thế giới. Không thể đạt tới sự phát triển xã hội theo hướng trên nếu nền kinh tế trong nước trì tệ, suy thoái. Ngược lại, cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, có hiệu quả cao và bền vững trong một xã hội với đa số dân chúng thấp kém về trí tuệ, ốm yếu về thể chất, suy thoái về đạo đức và một bộ phận đáng kể lao động lâm vào cảnh thất nghiệp, nghèo đói, bị đẩy ra ngoài lề xã hội.

Thứ hai, phát triển xã hội theo hướng tiến bộ, công bằng và hội nhập quốc tế có thể và cần phải hỗ trợ lẫn nhau, làm tiền đề và điều kiện cho nhau. Phát triển xã hội trước hết cần khai thác đến mức tối đa các nguồn lực nội sinh của đất nước, nhưng nguồn lực nội sinh đó sẽ được nhân lên khi có ự kết hợp và bổ sung bởi các nguồn lực quốc tế, bao gồm cả nguồn lực vật chất (như vốn, kỹ thuật, công nghệ) và nguồn lực tinh thần (như kiến thức, kinh nghiệm, ý tưởng). Trong mối quan hệ giữa nguồn lực trong nước và nguồn lực quốc tế, thì nguồn lực trong nước là quyết định, nguồn lực quốc tế là quan trọng.

Thứ ba, để thúc đẩy sự phát triển xã hội theo hướng tiến bộ, công bằng và hội nhập với thế giới có hiệu quả, cần phát huy vai trò của cả Nhà nước và xã hội dân sự. Nhà nước đề ra chiến lược, chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển xã hội tại nước mình và trên cơ sở đó mở rộng giao lưu, hợp tác với các nước khác trên thế giới về những vấn đề hai bên hoặc nhiều bên đều quan tâm. Xã hội dân sự (bao gồm các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức từ thiện, các nhóm hành động, các quỹ của cộng đồng, các hội nghề nghiệp, các hợp tác xã, các tổ chức công đoàn, phụ nữ, thanh niên, v.v...) tiến hành các hành động tập tự nguyện xung quanh việc chia sẻ những lợi ích, mục đích và giá trị về phát triển xã hội giữa các đối tác thuộc hai hay nhiều nước với nhau.

Tóm lại, với những thành tựu quan trọng và những kinh nghiệm quý báu trong hơn 20 năm qua, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng tương lai phát triển xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong những năm tới là sáng sủa và Việt nam sẽ ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010, tiến tới trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, sánh vai với các nước bè bạn khắp năm châu.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Công nghệ mới trong xử lý chất thải góp phần phát triển bền vững ngành chăn nuôi Việt Nam
Ngày 3/7, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Liên hiệp hội tỉnh Bắc Ninh và Hội Chăn nuôi Việt Nam tổ chức Hội thảo Phổ biến một số công nghệ mới có hiệu quả trong xử lý chất thải chăn nuôi. Hội thảo thu hút sự tham dự của đông đảo người sản xuất, kinh doanh, hộ chăn nuôi và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
"Sắp xếp lại giang sơn” là bước đi lịch sử
Sáng 30/6, Tổng Bí thư Tô Lâm dự Lễ công bố Nghị quyết của Quốc hội về sáp nhập tỉnh, thành phố cùng các quyết định của Trung ương Đảng thành lập đảng bộ tỉnh và nhân sự lãnh đạo địa phương tại Thành phố Hồ Chí Minh và có bài phát biểu với nhân dân Thành phố, đồng thời gửi gắm thông điệp tới nhân dân cả nước.
Phối hợp thúc đẩy giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật
Vừa qua, Viện Tài chính vi mô và Phát triển cộng đồng (MACDI) - tổ chức trực thuộc VUSTA - đã có buổi làm việc và ký kết thỏa thuận hợp tác với Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế và Liên hiệp hội tỉnh nhằm triển khai Dự án “Thúc đẩy giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật tại An Giang, Bắc Ninh và Hòa Bình với sự tham gia của nhóm hỗ trợ trẻ hòa nhập”.
Công bố giải thưởng Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Quảng Trị lần thứ XI
Sáng ngày 30/6, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Quảng Trị tổ chức Công bố các quyết định khen thưởng và trao thưởng Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Quảng Trị lần thứ XI (2024 – 2025). Tham dự có các thành viên trong Ban Tổ chức Hội thi; các tác giả, nhóm tác giả của 23 giải pháp, đề tài đạt giải tại Hội thi lần này.
Đoàn công tác VUSTA làm việc với CDC tỉnh Quảng Ninh về công tác phòng/chống HIV/AIDS
Chiều ngày 27/6, Đoàn công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã có buổi làm việc với Lãnh đạo Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Ninh (CDC) nhằm đánh giá tiến độ, kết quả triển khai các hoạt động trong khuôn khổ dự án Quỹ toàn cầu - VUSTA về phòng, chống HIV/AIDS.
Thanh Hóa: Sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm và phát động Giải thưởng Sáng tạo KHCN năm 2025
Ngày 27/6/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành mở rộng lần thứ 4 nhiệm kỳ 2024 - 2029 về sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm 2025, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm và phát động tham gia Giải thưởng Sáng tạo Khoa học công nghệ Việt Nam năm 2025 (Giải thưởng).
An Giang: Anh nông dân truyền cảm hứng giáo dục STEM
Anh Nguyễn Ngọc Đệ - một nông dân chỉ học hết lớp 6, hiện sinh sống tại xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang - đã xuất sắc đoạt giải Nhất tại Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh An Giang lần thứ XIV (2024-2025) với giải pháp mang tên “Mô hình Hạm đội Trường Sa phục vụ giáo dục STEM”.