Tổng hội Địa chất Việt Nam: 25 năm hoạt động và phát triển (1983-2008)
Với mục đích đó, Tổng hội Địa chất Việt Nam đã tập hợp đông đảo các nhà địa chất từ các cơ sở sản xuất, các đơn vị khảo sát điều tra địa chất, tìm kiếm thăm dò khoáng sản, dầu khí, nước dưới đất đến các cơ quan nghiên cứu, các Viện, các Trường Đại học, các cơ quan quản lý trong cả nước. Tập hợp trong Tổng hội Địa chất Việt Nam đã có hơn 5.000 hội viên, trong đó có 50 GS, 155 PGS, hàng trăm TS, ThS, hàng ngàn KS địa chất, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề.
Trong 25 năm, qua từng bước xây dựng và phát triển, đến nay Tổng hội Địa chất Việt Nam đã đạt được mức phát triển tổ chức khá hoàn thiện từ các hội chuyên ngành Địa chất Trung ương, đến các hội, chi hội địa phương, Câu lạc bộ Búa vàng Địa chất, Tạp chí Khoa học Địa chất công trình và Môi trường và đã các đơn vị khoa học và công nghệ hoạt động trên khắp đất nước và có cả .
Tổng hội Địa chất Việt Nam có 15 hội chuyên ngành là: Cổ sinh - địa tầng Việt Nam, Kiến tạo Việt Nam, Đệ tứ - Địa mạo Việt Nam, Khoáng thạch học Việt Nam, Trầm tích Việt Nam, Địa hoá Việt Nam, Địa chất biển Việt Nam, Địa chất kinh tế Việt Nam, Đá quý Việt Nam, Địa chất than Việt Nam, Địa chất Dầu khí Việt Nam, Địa chất Thuỷ văn Việt Nam, Địa chất Công trình và Môi trường Việt Nam, Tuyển khoáng Việt Nam và Công nghệ khoan khai thác Việt Nam ; 3 Hội Địa chất tỉnh, thành là Yên Bái, Hải Dương, thành phố Hồ Chí Minh và 5 hội, chi hội địa phương.
Câu lạc bộ Búa vàng Địa chất đã tập hợp được đông đảo những người đã và đang hoạt động trong ngành địa chất.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác khoa học và công nghệ của Đảng theo Nghị định 35 và Nghị định 81 của Chính phủ, Tổng hội Địa chất Việt Nam đã thành lập được 35 đơn vị khoa học và công nghệ, trong đó có 3 viện nghiên cứu, 16 liên hiệp khoa học sản xuất và 16 trung tâm nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật.
Tổng hội Địa chất Việt Nam đã động viên khích lệ các hội viên chủ trì hoặc tham gia nghiên cứu hàng trăm đề tài về địa chất khu vực và các chuyên đề về cổ sinh địa tầng, kiến tạo, địa tứ địa mạo, trầm tích, địa hoá, khoáng thạch học, địa chất biển, địa chất than, địa chất dầu khí, địa chất thuỷ văn, địa chất công trình và môi trường, tuyển khoáng, khoan khai thác v.v.....
Trên toàn quốc, các nhà địa chất đã hoàn thành khảo sát đo vẽ bản đồ địa chất tỷ lệ 1: 500.000, bản đồ địa chất ở tỷ lệ 1/200.000. Đặc biệt, công trình Bản đồ địa chất Việt Nam tỷ lệ 1: 500.000 do Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao chủ biên và Bản đồ Khoáng sản Việt Nam cùng tỷ lệ đó do Lê Văn Trảo. Trần Phú Thành chủ biên đã được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ năm 2005.
Công tác lập bản đồ địa chất ở tỷ lệ 1: 50.000 đã và đang được tiến hành và đến nay đã hoàn thành trên 75% diện tích lãnh thổ. Qua điều tra địa chất ở các vùng đô thị, các đới cấu trúc địa chất quan trọng, các diện tích ven biển v.v......đã cho các kết quả thích hợp quan trọng về địa chất, cấu trúc địa chất, đặc biệt là về triển vọng các loại khoáng sản phục vụ cho việc quy hoạch sử dụng tổng hợp khoáng sản và phát triẻn các vùng lãnh thổ.
Công tác bay đo địa vật lý tỷ lệ 1: 50.000-1:25.00 đã phủ gần 30% lãnh thổ, đã khoanh định được nhiều cụm dị thường phản ánh đặc điểm cấu trúc địa chất và khoáng sản liên quan, đặc biệt là urani, vàng, thiếc, quặng sắt.v.v.....
Việc điều tra địa chất thuỷ văn đã thực hiện gần 250.000 km 2tạo cơ sở khoa học cho việc đánh giá nước dưới đất ở các vùng quan trọng như đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ, Tây nguyên và các đô thị khu dân cư ven biển, ở tỷ lệ 1: 50.000 - 1: 25.000 đã được tiến hành trên diện tích gần 50.000 km2.
Việc đánh giá nguồn nước dưới đất đã được triển khai ở hơn 30 khu vực, tại hàng trăm điểm dân cư thị trấn và gần 20 đảo, qua đó đã phát hiện đuợc nhiều nguồn nước sạch. Ba mạng quan trắc quốc gia, động thái nước dưới đất đã cung cấp các số liệu phục vụ cho việc quản lý khai thác nước dưới đất.
Đến nay, các nhà Địa chất Việt Namcó nhiều phát hiện trong việc đánh giá tài nguyên khoáng sản của Việt Nam . Đất nước ta với diện tích không lớn nhưng có tài nguyên khoáng sản đa dạng và phong phú là nguồn động lực quan trọng để phát triển đất nước.
Chúng ta đã nghiên cứu đánh giá được tài nguyên dầu khí là 4,3 tỷ tấn, trong đó đạt trữ lượng 1,2 tỷ tấn. Đặc biệt, việc phát hiện ra dầu trong móng nứt nẻ trước Đệ Tam ở mỏ Bạch Hổ của Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro vào năm 1988 là sự kiện địa chất quan trọng đã làm thay đổi các quan điểm thăm dò truyền thống, cùng với việc áp dụng các giải pháp công nghệ mới vào thăm dò dầu khí ở Việt Nam đã đem lại thành quả lớn gia tăng trữ lượng dầu khí đáng kể cho đất nước.
Ở Việt Nam hiện có các loại than antracit với tổng tài nguyên trên 10 tỷ tấn trong đó trữ lượng khai thác trên 2 tỷ tấn, than mỡ: trên 11 triệu tấn, than lignit có tiềm năng hàng trăm tỷ tấn, than bùn chủ yếu ở đồng bằng Nam Bộ với trữ lượng không lớn.
Nước ta còn có hơn 400 nguồn nước nóng với tiềm năng địa nhiệt khoảng vài trăm MW.
Việt Nam cũng đã phát hiện có urani có thể thăm dò phục vụ cho phát triển kinh tế
Tài nguyên trữ lượng quặng sắt của Việt Nam đạt trên 1 tỷ tấn, trong đó có các mỏ sắt Thạch Khê, Hà Tĩnh với trữ lượng 544 triệu tấn, đang được nghiên cứu khai thác. Các mỏ cromit ở Thanh Hoá, Mangan ở Cao Bằng. Niken ở Sơn La, Titan phân bố ở nhiều nơi dọc bờ biển cũng đã và đang được đánh giá khai thác phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội.
Mỏ đồng Sin Quyền, Lào Cai có trữ lượng trên nửa triệu tấn đồng cùng với vàng, bạc, đất hiếm, đang được khai thác. Một số mỏ chì , kẽm, antimon ở Miền Bắc với quy mô trữ lượng trung bình. Nhiều mỏ thiếc và vonfram đã được phát hiện ở Tam Đảo, Quỳ Hợp, Lâm Đồng đã và đang được khai thác.
Quặng bauxit được phát hiện ở Tây Nguyên với tài nguyên hàng tỷ tấn có triển vọng khai thác trong thời gian tới. Ngoài ra bauxit trầm tích Permi ở Việt Bắc cũng đã được thăm dò.
Vàng đã được phát hiện ở Việt Nam từ lâu. Một số mỏ đã được khai thác nhưng trữ lượng không lớn.
Đất hiếm được phát hiện ở Lai Châu, Yên Bái, được đánh giá có trữ lượng rất lớn, cần được nghiên cứu sử dụng trong tương lai.
Quặng photphat kiểu apatit trầm tích biến chất ở Lao Cai đã được thăm dò và có tài nguyên trên 2 tỷ tấn và trữ lượng khoảng 900 triệu tấn. Các vùng quặng baryt, fluorit, pyrit, graphit, talc, asbet, muscovit, felspat, magnesit, thạch anh tinh thể v.v.... đã được điều tra và cho quy mô trung bình- nhỏ.
Việt Nam có trữ lượng rất lớn đá vôi xi măng, dolomit, ngoài ra các loại sét gốm, kaolin, pyrophylit, diatomit, bentonit, cát silic, v.v.... có trữ lượng cỡ trung bình có nơi đạt trữ lượng lớn. Ở nhiều nơi có các loại vật liệu xây dựng, đá trang trí ốp lát đang được khai thác phục vụ trong nước và xuất khẩu.
Đá quý chủ yếu là ruby, saphia được phát hiện ở Lục Yên, Yên Bái, Quỳ Châu Nghệ An, Đăk Nông, Bình Thuận. Đặc biệt ruby ở Việt Namcó chất lượng cao đạt cỡ quốc tế có giá trị thương mại cao tương đương ruby của Myanmar .
Cùng với việc lập bản đồ địa chất, tìm kiếm thăm dò các mỏ, việc nghiên cứu chuyên đề về cổ sinh - địa tầng, kiến tạo, magma, trầm tích, biến chất, địa mạo, đệ tứ, vỏ phong hoá, địa hoá, địa vật lý, khoan khai thác, tuyển khoáng v.v.... đã cho các kết quả lý thú góp phần làm sáng tỏ cấu trúc địa chất, lịch sử phát triển địa chất lãnh thổ Việt Nam, làm giầu những hiểu biết về lòng đất Việt Nam nói riêng và khu vực Đông NamúA và thế giới nói chung.
Có được các thành quả kể trên không thể tách rời với công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và các cán bộ quản lý.
Đất nước ta tự hào vì những thành tựu của ngành địa chất Việt Nam và cũng tự hào vì đã có những cán bộ và các hội viên địa chất tâm huyết với ngành nghề, sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, không kể khó khăn, gian khổ để phát hiện nhiều tài nguyên và bảo vệ môi trường bền vững cho đất nước.
Đảng và Nhà nước đã đánh giá cao các thành tựu của ngành địa chất và đã tặng thưởng cho ngành Huân chương Hồ Chí Minh. Hội Địa chất Việt Nam (nay là Tổng hội Địa chất Việt Nam) cũng vinh dự được Huân chương Lao động hạng Nhì và hạng Nhất. Năm 2005, Chủ tịch nước đã gửi thư khen ngợi Liên hiệp Khoa học Địa chất và Du lịch thuộc Tổng hội Địa chất Việt Nam đã tìm thấy nước ngọt phục vụ bà con vùng cao Hà Giang.
* Chủ tịch Tổng hội Địa chất Việt Nam








