Tình hình biển, đảo ở nước ta hiện nay
Trong tình hình hiện nay trên các vùng biển khác tương đối ổn định, các nước có tranh chấp đều có thiện chí và có biện pháp tích cực giải quyết tranh chấp bằng hoà bình. Tình hình Biển Đông, Hoàng Sa và Trường Sa sẽ có chiều hướng diễn biến phức tạp. Trung Quốc ỷ thế nước lớn, gia tăng các hoạt động quân sự, xâm phạm chủ quyền có thể gây mất ổn định ở khu vực, khả năng Trung Quốc dùng vũ lực đối với Trường Sa là khó tránh khỏi bởi lẽ.
Thứ nhất: Trung Quốc tăng cường các chủ trương, chính sách đẩy mạnh tuyên truyền khẳng định chủ quyền ở Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở cấp cao hơn, rộng hơn và toàn diện hơn.
Nếu như trước đây chỉ tuyên truyền theo dạng “Thời vụ”, địa phương làm là chủ yếu, thì hiện nay triển khai bằng chiến lược tổng thể, toàn diện, hệ thống, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, các cấp, các ngành, các lực lượng và bằng mọi phương tiện, không chỉ phạm vi trong nước mà cả quốc tế. Trong đó tập trung biểu hiện ở các nôi dung, biện pháp sau:
Đẩy mạnh tuyên truyền kích động thu hồi Trường Sa:
Đã tiến hành thu thập và hệ thống lại các tài liệu liên quan đến chủ quyền biển, đảo (nhất là Biển Đông) của các triều đại Trung Quốc trước đây để phục vụ cho đòi hỏi chủ quyền (trước đây họ tuyên truyền Bản đồ Đại Trung Hoa giống như con hổ, hiện nay họ tuyên truyền Bản độ Đại Trung Hoa như ngọn đuốc – Trong đó đường yêu sách lưỡi bò mà Trung Quốc tự vạch ra là cán đuốc); thông qua các bài viết tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trong nước và trên mạng internet có nhiều bài viết mang tính kích động và xuyên tạc lịch sử về 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Đưa thông tin trên mạng về các phương án đánh chiếm quần đảo Trường Sa nhằm đe doạ Việt Nam. Sử dụng lực lượng người Hoa để nắm tình hình và tung tin, tạo dư luận nhằm thăm dò phản ứng của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc, nhất là về vấn đề Biển Đông.
Đẩy mạnh hoạt động công tác đối ngoại, tạo thế có lợi cho Trung Quốc trong “xử lý”; giải quyết tranh chấp Biển Đông; tuyên truyền yêu sách chủ quyền.
Lợi dụng diễn đàn quốc tế, các hoạt động chính tri (Olimpic Bắc Kinh 2008; ra các thông cáo báo chí, hội thảo…), tuyên bố khẳng định chủ quyền; đặc biệt phát tán tài liệu có vẽ quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa như một bộ phận thuộc “Lãnh thổ” của Trung Quốc; tổ chức đoàn đi thăm các đảo Trung Quốc chiếm đóng trái phép ở khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam; Tổ chức Hội nghị quốc tế; thực hiện nhân nhượng; thực hiện chính sách ngoại giao “Quyền lực mới”; đưa ra yêu sách “Đường lưỡi bò”; tiến hành phản đối hoặc gây sức ép với các nước trong khu vực; Thoả thuận khai thác chung ở Biển Đông với Nhật (11/2008); đẩy mạnh quan hệ với Nga, Ấn Độ. Lôi kéo Đài Loan hợp tác nghiên cứu chuyên đề về Biển Đông, hợp tác khai thác dầu khí bảo vệ môi trường ở Biển Đông, hiện nay đang tiến hành đàm phán với Đài Loan để xây dựng “Công viên Hải dương Trung Quốc” ở khu vực Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam; Lôi kéo, chia rẽ các nước ASEAN nhất là các nước có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông “Đàm phán giải quyết song phương” từng nước để cô lập ép Việt Nam; đồng thời thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện gia tăng ảnh hưởng ở Lào, Cam-pu-chia tạo thế lợi trong giải quyết tranh chấp ở Biển Đông với Việt Nam.
Đẩy mạnh các chủ trương, chính sách về biển, như:
Hoàn thiện các văn bản pháp luật về biển (Hiện nay Trung Quốc đã có 6 Luật về biển và đang dự thảo Luật về đảo); Xây dựng và thực hiện chế độ quản lý đảo không có người. Tổ chức hội thảo, ban hành nhiều chính sách về chủ quyền, nguồn lợi biển; Trao quyền của Trung ương cho các địa phương ven biển về quản lý sử dụng biển (100 huyện toàn quốc). Đã có: Quy định pháp luật và quy định chế độ quản lý sử dụng biển; 4 tỉnh ra quy định pháp luật và quy chế địa phương về bảo vệ môi trường biển.
Thứ hai: Tăng cường tiềm lực quốc phòng, tập trung đầu tư phát triển lực lượng Hải quân, nhất là Hạm đội Nam Hải; nâng tần suất hoạt động tuần tra trên biển với số lượng lớn, tàu mới hiện đại, hoạt động rộng, đồng bộ, tổng hợp, bí mật nhằm tăng khả năng kiểm sáot, khống chế hoạt động kinh tế, quân sự của các nước ở Biển Đông:
Hàng năm tăng ngân sách quốc phòng trung bình từ 14-15% (Năm 2007 là: 45 tỷ USD; Năm 2008 là: 59 tỷ USD; Năm 2009 là: 71,27 tỷ USD); Xây dựng tăng cường 5 Trung đoàn, Lữ đoàn Hải quân ở đảo Hải Nam (Tàu ngầm, Tàu khu trục tên lửa, Không quân, dẫn đường cho Không quân ở Trường Sa). Xây dựng Hải quân từ “Nước vàng” thành Hải quân “Nước xanh”; Phát triển Hạm đội Nam Hải trở thành Hạm đội mạnh nhất của Hải quân Trung Quốc; xây dựng các căn cứ tàu ngầm, tàu khu trục, vị trí đỗ tàu sân bay ở Hải Nam; xây dựng căn cứ liên hợp các lực lượng, Hải quân, Không quân, Hải giám, Ngư chính, Hải cảnh… và Sở chỉ huy (ở Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa) bảo vệ chủ quyền biển, đảo gồm các thành phần, lực lượng để phối hợp bảo vệ quần đảo Trường Sa; Chuyển đổi, cải hoán các thế hệ tàu chiến cũ thành tàu Hải giám, Ngư chính (tàu 311) để xây dựng lực lượng tuần tra mạnh trên biển. Nâng tần suất hoạt động của các lực lượng Hải giám, Ngư chính, Hải cảnh trên Biển Đông - quần đảo Trường Sa; Thường xuyên tổ chức các cuộc huấn luyện, diễn tập từ cấp lữ đoàn đến cấp Hạm đội; phối hợp Quân Binh Chủng (cấp Đại quân khu) ở khu vực quần đảo Hoàng Sa và phụ cận; Đẩy mạnh đầu tư tăng cường quân sự, luyện tập các phương án tác chiến đánh chiếm đảo khi có thời cơ (tăng cường tuần tra, giám sát bảo vệ chủ quyền); Sử dụng máy bay Su-27 luyện tập bay dọc phía Đông đường phân vịnh Vịnh Bắc bộ từ 30-35 km đến Đông bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) Nam quần đảo Hoàng Sa và ngược lại để trinh sát nắm tình hình và răn đe; Đưa lực lượng tàu chiến đi tham gia chống cướp biển tại vùng biển Sômail, tham gia diễn tập với Pakixtan; Đầu tư, triển khai các dự án, chương trình lớn phục vụ cho đời sống dân sinh trên các đảo (đóng tàu Bệnh viện hiện đại, có trọng tải lớn; trang bị phương tiện hiện đại, đồng bộ để phục vụ cho học tập từ xa… coi đảo như đất liền); Đặc biệt, từ 13-23/5/2009, lực lượng Hạm đội Nam Hải của hải quân Trung Quốc đã thiết lập một mạng thông tin liên lạc để chỉ huy phối hợp hoạt động của 13 tàu lớn mới sản xuất, hiện đại nhất Hạm đội Nam Hải gồm 9 tàu quân sự và các tàu Hải giám, tàu trinh sát, nghiên cứu biển cùng với 3 máy bay hoạt động rộng khắp toàn bộ diện tích “Lưỡi bò” ở khu vực quần đảo Trường Sa và Nam quần đảo Trường Sa. Trong đợt hoạt động này các tàu chủa Trung Quốc đã tiến hành kéo cờ và thả bia chủ quyền tại bãi cạn Tăng Mẫu (cực Nam lưỡi bò); Nhân dịp Kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Hải quân Trung Quốc, ngày 23/4/2009 đã tổ chức diễu duyệt lực lượng Hải quân qui mô lớn gồm 46 tàu của 14 nước tham gia (riêng Trung Quốc có 25 tàu đầy đủ các loại tàu mới, hiện đại của hải quân Trung Quốc: tàu ngầm hạt nhân, Khu trục tên lửa; Vận tải đổ bộ loại lớn, các tàu phục vụ, tàu tên lửa hiện đại cùng 31 máy bay các loại trinh sát điện tử, máy bay cảnh giới tầm xa…), Chủ tịch nước, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đảo chủ trì buổi lễ. Mục đích là để khuyếch trương sức mạnh, khẳng định vị thế quyết tâm xây dựng “Hải quân nước xanh” và răn đe các nước.
Thứ ba: Tăng cường xây dựng, củng cố, nâng cấp hiện đại hoá các đảo đã chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; đồng thời có kế hoạch xây dựng và mở rộng một số đảo trở thành trung tâm hành chính đồng bộ và hiện đại:
Tại Hoàng Sa: Xây dựng trụ sở hành chính, sở chỉ huy, xây dựng sân bay Phú Lâm, xây dựng cầu cảng và các tầu lớn. Dự kiến xây dựng Phú Lâm như Hồng Kông các công trình kiên cố lâu bền.
Tại Trường Sa: Xây dựng nhà kiên cố (Bãi đá Xu Bi thêm nhà 3 tầng, luồng vào đảo), xây dựng đèn biển trên một số bãi đá; thiết bị dẫn đường, phao luồng… Có kế hoạch xây dựng bãi đá Chữ Thập trở thành một Trung tâm hiện đại của Nam Sa (Trường Sa). Nâng cấp hệ thống thông tin, trinh sát vệ tinh ở Châu Viên thành trạm gác tiền tiêu số 1 tại Tam Sa xây dựng hoàn thiện Trạm khí tượng ở Trường Sa (3 trạm thiết bị của Công ty Visara Phần Lan).
Thứ tư: Tạo hành lang pháp lý, luật hoá, hành chính “Chủ quyền”; dân sự hoá, xã hội hoá các hoạt động ở Biển Đông - quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa:
Ban bố Luật khai thác đảo không người có cả các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa; Tổ chức du lịch ra quần đảo Hoàng Sa 3/2009 (thành lập Công ty TNHH du lịch quốc tế Châu Giang của Trung Quốc) có trụ sở tại Hải Khẩu (Hải Nam) đã quảng cáo mở tuyến đường du lịch 5 ngày ra quần đảo Hoàng Sa; Thành lập Vụ Biên giới và Hải dương (4/2009) để hoạch định biên giới trên biển; tổ chức lập các hồ sơ giải quyết các vụ việc liên quan đến lãnh thổ, chủ quyền trên biển, lập bản đồ địa danh, đàm phán lãnh hải; Tuyên bố khẳng định “Chủ quyền” ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau khi UBND thành phố Đà Nẵng bổ nhiễm Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa (25/4/2009). Bộ ngoại giao Trung Quốc đã ra tuyên bố bác bỏ và khẳng định việc bổ nhiệm của Việt Nam là “Bất hợp pháp và không giá trị”; Ngay sau khi Việt Nam và Ma-lai-xi-a trình báo cáo (7/5/2009) lên uỷ ban ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp quốc về vấn đề thềm lục địa 200 hải lý. Trung Quốc đã phản đối và khẳng định Trung Quốc có “Chủ quyền” đối với biển và thềm lục địa (đính kèm bản đồ có vẽ đường lưỡi bò). Đây là lần đầu tiên sự leo thang của Trung Quốc chính thức khẳng định điều này với cơ quan Liên Hợp quốc.
Thứ năm: Đầu tư lớn cho khai thác dầu khí ngoài khơi, phân lô dầu khí theo “Đường lưỡi bò”’ tích cực nghiên cứu, thăm dò, khai thác dầu khí trên vùng biển nước ta; không thực hiện thiện chí nghiên cứu khoa học ở Biển Đông:
Phương châm thăm dò, khai thác dầu khí của Trung Quốc là: Vùng biển xa trước, đất liền sau; Vùng biển tranh chấp trước, chủ quyền sau; Vùng biển chồng lấn trước, chủ quyền sau; Gác tranh chấp – cùng nhau khai thác; Gần đây, Trung Quốc đã đầu tư gần 30 tỷ USD cho Công ty dầu lửa ngoài khơi của Trung Quốc giai đoạn 2009-2010 để thúc đẩy nhanh tiến độ thăm dò, khai thác dầu khí ở Biển Đông; Tiến hành phân chia các lô dầu khí ở Biển Đông, với diện tích vùng biển rộng khắp sát theo “Đường lưỡi bò” do Trung Quốc tự vạch ra (bao gồm thềm lục địa phía Đông Việt Nam, toàn bộ quần đảo Trường Sa và DK 1 của ta); đồng thời đã giao quyền nghiên cứu, thăm dò, khai thác 105 lô cho 3 công ty lớn CNOOC (Công ty dầu mỏ ngoài khơi quốc gia Trung Quốc) = 82 lô; CNPC (Công ty dầu mỏ và khi thiên nhiên Trung Quốc) = 18 lô và Sinopec (Công ty hoá dầu Trung Quốc) = 5 lô. Vi phạm nghiêm trọng chủ quyền biển, đảo, xâm phạm lợi ích quốc gia trên biển nước ta; việc làm trên của Trung Quốc không phù hợp với Hiến chương Liên Hợp quốc và Công ước, Luật biển quốc tế, đi ngược lại thoả thuận lãnh đạo cấp cao hai nước, tinh thần của Tuyên bố chung về các ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) đã thoả thuận giữa Trung Quốc và các nước ASEAN.
Thứ sáu: Vừa lôi kéo, vừa gia tăng sức ép, phản đối ngoại giao, buộc các nước, các đối tác phải dừng, phải huỷ bỏ các hợp đồng nghiên cứu, khai thác dầu khí với Việt Nam; tìm cách mua lại một số dự án của nước ngoài, liên kết với nước ngoài; mặc cả với Việt Nam trên một số vùng biển:
Đã trực tiếp gặp Chính phủ, Bộ Ngoại giao, đối tác, sứ quán để phản đối, ép, yêu cầu ngừng hợp tác hoạt động, làm cho các đối tác của chúng ta lo lắng, hoang mang, muốn điều chỉnh (có đối tác đã ký kết làm ăn với ta 17-20 năm). Gần đây, Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động nhằm đẩy mạnh xúc tiến đồng bộ các biện pháp để phục vụ cho công ty khai thác dầu khi ở vùng biển nước sâu và xác lập chủ quyền ở Biển Đông - quần đảo Trường Sa. Cụ thể:
Tổ chức Hội thảo đánh giá lựa chọn khu vực khai thác dầu khí (28+29/3/2009) và đã chọn 20 khu vực nước sâu, trong đó có 3 khu vực liên quan và vi phạm chủ quyền biển đảo, lợi ích trên biển nước ta ở cửa vịnh Bắc bộ; quần đảo Trường Sa và DK1; Đàu tư đóng mới, mua sắm 1 giàn khoan (đã đưa vào khai thác) và 4 tàu công tác dầu khí đa chức năng; mua toàn bộ công ty AUO của Na Uy (Công ty này có 2 giàn khoan họat động tại ĐN Vũng Tàu, Côn Đảo); phối hợp công ty ADTH (Na Uy) và đã thí điểm thành công kỹ thuật “Khoan sâu kiểu thùng ASDD phao nổi Atlantis” tại NĐN Hải Nam ơ mức nước sâu 1.500m (25/4/2009). Đóng giàn khoan nước sâu 3.050 m (tháng 12/2010 xong); Đẩy mạnh liên doanh với nước ngoài để nghiên cứu thăm dò; khảo sát, thăm dò dầu khí ở Biển Đông. Đến nay đã ký gần 100 hợp đồng với hơn 40 công ty dầu khí của 20 quốc gia tập trung khảo sát vùng biển liên quan, gồm các vùng biển đang tồn tại tranh chấp với các nước; Chủ động ngăn cản, va chạm, cắt cáp tàu Việt Nam đe doạ các tàu trực ta ở Hua Guang (tháng 9/2008, Trung Quốc đưa 5 tàu (3 tàu Hải Giám 74, 81 + 1 và 2 tàu chiến ngăn cản biên đội HQ – 950; VH-787, 740 bảo vệ tàu Northeren Explorer của Công ty PGS khảo sát ở TB đảo Song Tử Tây 120 – 130 hải lý, đã đâm va HQ-950, cắt cáp tàu thăm dò của ta).
Thứ bảy: Đẩy mạnh hoạt động các lực lượng Tàu Hải giám, Ngư chính, gia tăng hoạt động tàu cá vừa đánh bắt, vừa trinh sát, duy trì thực thi pháp luật khẳng định chủ quyền; thực hiện phương châm “Khẳng định, bảo vệ chủ quyền; nghề cá đi đầu”:
Thông báo vùng đánh bắt, vùng cấm (mùa cá đẻ), hàng năm cấm đánh bắt cá từ ngày 01/6 đến ngày 01/8 từ vĩ độ 12 trở lên (năm 2009 thông báo sớm hơn 15 ngày, bắt đầu từ ngày 15/5) với việc thông báo cấm trên, thì họ coi đây đương nhiên là chủ quyền của họ; Thường xuyên tổ chức đánh bắt ở Trường Sa, DKI (từ 40-60 lượt chiếc tàu/ngày), cho tàu thả xuồng vào lòng hồ và sát vào mép các đảo của ta; Đưa tàu kiểm ngư, kiểm tra, duy trì pháp luật; Cố tạo 3 vùng đánh cá truyền thống mới (Chủ quyền – theo Luật nghề cá). KVI: Đông Bắc – ĐN Lý Sơn từ 45-70 hải lý; KV3: Tây Bắc Phúc Nguyên, Phúc Tần (DKI), với số lượng tàu cá từ 20-30 chiếc/ngày, cao nhất là 50 chiếc/ngày (gấp 10 lần Việt Nam).
Vừa qua, Trung Quốc đã đưa 26 ngư dân, 23.000 cá giống (cá Mú, cá Đông Tình, cá Bớp) đến nuôi cá lồng ở Vành Khăn và có ý định phát triển sang Xu Bi và một số khu vực khác (hiện ở Vành Khăn có khoảng 4-5 tàu cá phục vụ nuôi cá lồng).
Hiện nay, hàng ngày có từ 30 đến 35 tàu thuyền cá của Trung Quốc hoạt động ở quần đảo Trường Sa và biển phía Nam quần đảo Trường Sa, trong đó có 18 đến 20 tàu hoạt động các bãi cạn gần đảo của Việt Nam đang đóng giữ.
Thứ tám: Bắt và phạt nặng tàu cá của ngư dân ta, thậm chí bắn vào ngư dân, làm cho các ngư dân ta hoang mang, lo sợ và bỏ ngư trường:
Thời gian gần đây họ bắt và phạt rất nặng tàu cá của ta vào đánh bắt ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, bắt người nhà lên biên giới nộp tiền mới thả tàu; phạt lần sau cao hơn lần trước, thậm chí còn đuổi bắt và bắn vào tàu cá của ta. Mục đích cuối cùng là để cho ngư dân ta không dám ra làm ăn trên vùng biển này, đây là hành động có tính toán của họ, nhằm khẳng định chủ quyền.
Thứ chín: Ngăn cản, không thiện chí thực hiện tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển đối với ngư dân ta (đây là hoạt động nhân đạo):
Thể hiện rõ nhất là: Gây khó khăn cho ta trong cứu hộ, cứu nạn ở khu vực Hoàng Sa, biểu hiện là: Cố tình trì hoãn sự hợp tác trong tình huống cứu hộ, cứu nạn; Không cung cấp thông tin, ngăn cản, giám sát, không cứu ngư dân ta gặp nạn. Hành xử không theo thông lệ quốc tế; Cố tình cung cấp thông tin sai sự thật.
Thứ mười: Quốc Vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn thành lập thành phố cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam – Đây là bước tiến mới của Trung Quốc:
Trực tiếp quản lý 3 quần đảo: Đông Sa, Tây Sa (HS), Nam Sa (TS) (gồm 260 đảo, bãi đá ngầm); Quản lý 2,6 triệu km vuông, chiếm 76% diện tích Biển Đông;
Dự báo tình hình và một số vấn đề đặt ra trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa hiện nay:
Đối với Trung Quốc: tiếp tục thu thập các tài liệu, chứng cứ (thậm chí tạo chứng cứ giả) để tuyên truyền ở nhiều cấp độ, với quy mô lớn hơn, toàn diện hơn, mạnh mẽ hơn nhằm khẳng định chủ quyền của họ ở Biển Đông (trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam); Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, thăm dò, khảo sát xâm phạm chủ quyền, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, trong đó có sự hỗ trợ, bảo vệ của lực lượng bán quân sự và quân sự. Khi các lực lượng của ta thực hiện nhiệm vụ ngăn cản, tàu của Trung Quốc sẽ đâm va, tạo cớ để gây đụng độ với ta; Khi chúng ta triển khai thực hiện các hoạt động thăm dò, khảo sát và thực hiện các hợp đồng đã ký kết với các nước, Trung Quốc sẽ phản đối ta thông qua các diễn đàn quốc tế và khu vực; mặt khác sẽ tiến hành ngăn cản với những hình thức, biện pháp căng thằng, quyết liệt hơn, không loại trừ đâm và và tạo cớ xung đột; Lợi dụng khi ta sơ hở, Trung Quốc có thể sẽ sử dụng lực lượng quân sự bất ngờ hạ đặt giàn khoan, đóng chiếm các đảo không người, hoặc đánh chiếm các đảo của ta; Tiếp tục đẩy mạnh việc củng cố, xây dựng và mở rộng các đảo đang chiếm đóng ở Trường Sa trở thành những căn cứ quân sự đủ mạnh để khống chế toàn bộ quần đảo và khu vực Biển Đông.
Đối với các nước còn lại có tranh chấp chủ quyền: Tiếp tục củng cố, xây dựng các đảo đã chiếm đóng ở Trường Sa, tăng cường sức mạnh quân sự để bảo vệ yêu sách chủ quyền, vừa tích cực đàm phán tìm hướng đi cho việc giải quyết các tranh chấp (không loại trừ bị Trung Quốc tìm cách lôi kéo, gây phân hoá các nước ASEAN trong giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, Trường Sa).
Tuy nhiên, trong thực tế, chiếm toàn bộ quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng là một vấn đề khó khăn với Trung Quốc vì:
Vị trí địa lý cách xa Trung Quốc, hạn chế khả năng tác chiến trên biển của hải quân Trung Quốc (tầm hoạt động của máy bay, tàu chiến, bảo đảm hậu cần,tiếp tế và các hoạt động chỉ huy, thông tin chưa liên hoàn…). Trong khi đó Việt Nam, Philippines và các nước đang đứng chân hợp pháp trên các đảo lại đang hiện đại hoá lực lượng của mình, Hệ thống các đảo và bờ biển có thể hỗ trợ tích cực cho hoạt động tác chiến ở Trường Sa. Các vũ khí hiện đại tuy ít nhưng cũng đủ đương đầu với lực lượng Trung Quốc trong giai đoạn đầu tác chiến.
Philippines, Malaixia có quan hệ thân thiết với Mỹ và các đối tác lớn trên thế giới, chính sự quan hệ mật thiết mà quyền lợi và lợi ích của các bên là một bảo đảm cho việc giữ gìn chủ quyền quốc gia của họ thật sự vững chắc. Hơn nữa đối với Việt Nam là Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc, thành viên của ASEAN, có quan hệ tích cực với các nước Nga, Ấn Độ, Nhật…
Trong khi đó khu vực này có nhiều công ty nước ngoài đang đầu tư nên Trung Quốc khó thực hiện các hoạt động quân sự lớn.
Mặt khác, Trung Quốc đang có nhiều cơ hội để “trỗi dậy trong hoà bình” nên không muốn có “chiến tranh”. Vì nếu chiến tranh xảy ra, Trung Quốc sẽ bị cô lập, các nước Trung Quốc đang tranh thủ sẽ nghiêng về Mỹ và các nước lớn khác. Uy tín của Trung Quốc sẽ tổn hại. (Hiện nay tình hình Tây Tạng đang phức tạp).
Nghiên cứu những vấn đề trên, Nghị quyết Trung ương 4 khoá X, Đảng ta đã phân tích, đánh giá tình hình và xác định quan điểm chỉ đạo về chiến lược biển đến năm 2020 là: nước ta phải trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát huy toàn diện ngành nghề biển với cơ cấu phog phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn; biết kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm an ninh, quốc phòng, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo chiều hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tạo sự thu hút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa. Phát huy đầy đủ, có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Quan điểm chủ trương và hoạt động bảo vệ chủ quyền đối với biển đảo của ta là: tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với biển đảo nhất là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; Tăng cường tuyên truyền đối ngoại, triển khai thực hiện nghị quyết TW4 khoá 10 về Chiến lược biển; duy trì quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng; tôn trọng Công ước về Luật biển năm 1982, các Nguyên tắc ứng xử trên biển Đông và các hiệp ước đã ký kết.
Với Trung Quốc tiếp tục quan hệ theo phương châm 16 chữ vàng: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
Giải quyết vấn đề phức tạp cần trao đổi thông qua đường dây nóng theo thoả thuận giữa 2 Đảng và Nhà nước; dân sự hoá quần đảo Trường Sa: tiến hành bầu cử, du lịch.. Hiện nay chủ trương cho các hộ dân ra đảo sinh sống; tiếp tục hiện đại hoá và nâng cao khả năng tác chiến của lực lượng Hải quân, các lực lượng phòng thủ ven biển, các lực lượng tên lửa, không quân.
Từ sự chỉ đạo trên đây, Đảng ta định ra chiến lược biển đến năm 2020 là: chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại; về chiến lược đối với các vùng biển cụ thể: về vấn đề bảo vệ môi trường biển, ven biển, phòng chống thiên tai, xây dựng kết cấu hạ tầng biển và điều tra cơ bản về tài nguyên, môi trường phát triển khoa học công nghệ biển.
Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã đề cập trong chiến lược biển đến năm 2020 là rất toàn diện, có tính khả thi cao; vừa phù hợp với tình hình thế giới, tình hình khu vực, vừa đáp ứng được những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Biển, do có vị trí chiến lược rất quan trọng công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa là nhiệm vụ và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng và kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh chính trị, kinh tế, pháp lý và ngoại giao. Đồng thời đẩy mạnh các hoạt động phối hợp tuyên truyền biển, đảo giữ vững an ninh trật tự an toàn trên biển.