Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 04/02/2012 21:34 (GMT+7)

Tính đa dạng văn hóa vùng Tây Bắc

Như vậy, trên cùng một không gian địa lý, ở những bình độ khác nhau có môi trường tự nhiên và hệ sinh thái khác nhau. Bên cạnh đó, ở Tây Bắc trên cùng một khu vực địa lý, còn có những khác biệt và sự phân bố dân cư và sắc thái văn hóa tộc người.

Với những hiểu biết hiện nay thì một trong những nhóm cư dân bản địa lâu đời nhất từng đến định cư ở vùng Tây Bắc là một tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khmer cổ mà hậu duệ của họ hiện nay là người Kháng, La Ha, Xinh Mun, Mảng.... Họ mang những đặc trưng nhân chủng của loại hình Nam Á, nói ngôn ngữ Môn - Khmer thuộc nhóm Môn - Khmer miền núi. Nhiều khả năng, vào những thế kỷ đầu sau Công nguyên, tổ tiên của họ đã sống với cư dân Tày - Thái cổ tức tổ tiên của người Tày - Thái Trắng hiện nay. Nhưng cũng có thể cho rằng, vào thời hưng thịnh của đế chế Angkor (808 - 1434), trong chiến lược đầy tham vọng của chính quyền Chân Lạp nhằm mở rộng ảnh hưởng ra các quốc gia láng giềng khu vực, cùng với nhóm người cổ, một bộ phận người Khmer đã đến định cư ở Lào, Chămpa, Đại Việt... (2).

Mở rộng mối liên hệ văn hóa theo hướng lịch đại và đồng đại chúng ta thấy, trong không gian văn hóa Hoa Nam - Bắc Đông Dương, vùng Vân Nam giống như “một bàn xoáy của Đông Nam Á” (3). Vào hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau, dọc theo các gờ cao thuộc lưu vực sông Hồng và trong các thung lũng đã có nhiều tộc người cùng nhau sinh sống. Quá trình tập trung dân số và sự phát triển của kỹ thuật sản xuất đã dẫn đến sự bùng nổ dân số. Hiện tượng đó dẫn đến sự di chuyển của các tộc người từ vùng Đông Bắc và Tây Bắc xuống các vùng thấp. Sông Hồng trở thành trung điểm của cuộc di chuyển ấy. Cùng với các làn sóng thiên di là quá trình khai phá lưu vực sông Thao, sông Lô, sông Đà. Dọc theo lưu vực Nậm Tao (sông Hồng) một bộ phận người Thái từ Vân Nam xuống phương Nam vào thế kỷ XII - XIII. Tuy nhiên, các nguồn tư liệu cổ của người Thái cho thấy, trước thế kỷ X, có thể là “từ thời kỳ tiền nông nghiệp dùng cày trên ruộng nước”, người Thái đã từng sinh tụ ở một số vùng Tây Bắc trong đó có Mường Ò, Mường Thanh... Từ vùng “Đất tổ” ấy, họ đã di cư xuống phía Nam (4). Cũng trong khoảng thời gian đó, với sự suy yếu của vương quốc Nam Chiều, nhiều nhóm Tạng - Miến đã theo sông Nặm U vào đất Lào. Trong quá trình đó, một số nhóm Thái Trắng đã cộng cư cùng với các tộc người nói ngôn ngữ Thái và Tạng - Miến là chắc chắn nhưng điều đó không gây nên những xáo trộn lớn về thành phần tộc người và phân bố cư dân các dân tộc. Các tộc nói ngôn ngữ Môn - Khmer bản địa vẫn là thành phần cư dân chủ đạo. Họ sinh sống chủ yếu ở các thung lũng và canh tác nông nghiệp” (5).

Sau đó, trong khoảng thế kỷ XII - XIII, do những biến động chính trị lớn ở Trung Quốc, một dòng người Thái (tổ tiên của người Thái Đen hiện nay), theo các thung ũng và triền sông Đông Nam Á đã di cư xuống phía Nam. Họ đến Tây Bắc, miền núi Thanh - Nghệ và một dòng khác đã dọc theo sông Menam Chao Phraya (6) đến vùng đất cổ của người Môn và lập nên vương quốc Xiêm (Siam) của người Thái (Thailand). Cuộc thiên di này đã dẫn đến những thay đổi lớn về phân bố dân cư và thành phần tộc người ở Đông Nam Á bán đảo. Người Thái từ chỗ chỉ là thiểu số, đã tràn xuống khai phá, chiếm cứ các thung lũng và đẩy một số tộc người cổ lên các vùng cao. Đó là cuộc chinh phục, giành giật môi trường sống, không gian canh tác, lâu dài, đầy gian khổ (7). Sự hiện diện của thuật ngữ “Mường Lay” với ý nghĩa “xua, đuổi” là một trong những minh chứng cho quan điểm đó. Sau khi làm chủ các thung lũng, người Thái đã xây dựng các trung tâm kinh tế, văn hóa và ở đó hình thành nên các mường. Trong đó, các mường gốc (mường luông) luôn giữ vai trò chủ đạo, vị trí trung tâm trong các hoạt động kinh tế - xã hội. Như vậy, cùng với sự nhập cư của một số tộc người, ở Hưng Hóa - Tây Bắc dần hình thành 3 không gian kinh tế - văn hóa: người Thái, Mường ở vùng thung lũng thấp; người Môn - Khmer ở vùng giữa còn người Hmông... ở vùng cao. Nhưng, như đã trình bày ở trên, đó không phải là sự phân lập xã hội, văn hóa một cách tuyệt đối mà giữa các lớp người, tộc người luôn diễn ra sự hỗn dung văn hóa, trong đó tiêu biểu là sự hỗn dung giữa người Mường với các nhóm Thái cổ và giữa người Thái Đen với các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer mà trước hết là người Khơ Mú (8), giữa người Thái với các tộc Tạng - Miến và Hmông - Dao. Ở vùng núi Thanh Hóa - Nghệ An và Hòa Bình, sự hỗn dung đó đạt đến độ hòa hợp cao khiến khó phân biệt đâu là Mường hay Thái (9).

Nếu như coi văn hóa, xã hội là một tiềm năng quan trọng trong chiến lược phát triển ở vùng thì Tây Bắc chính là một không gian đa dạng về môi trường tự nhiên, thành phần tộc người và sắc thái văn hóa (10). Không gian văn hóa - xã hội Tây Bắc chính là một bảo tàng sống, sinh động bảo lưu nhiều giá trị truyền thống, dấu ấn cổ sơ của nền văn hóa Việt. Tuy luôn có sự giao lưu, giao hòa văn hóa nhưng ở Tây Bắc ít diễn ra sự chà xát xã hội, văn hóa khắc nghiệt như vùng Đông Bắc và một số khu vực khác. Theo các tác giả của Đại Nam nhất thống chíthì: Nhân dân sinh sống ở một dải sông Thao có phong tục thuần hậu, biết văn tự, lễ phép, tập tục nhìn chung giống cư dân vùng hạ châu thổ. Trong khi đó, cư dân vùng Đà Giang lại có khí chất mạnh mẽ, giỏi săn bắn, chài lưới, ở nhà sàn, lợp tranh hoặc đắp đất. Nhà ở của họ thường dựa vào chân núi, phong tục gần gũi với nước láng giềng Ai Lao. Việc bảo tồn nhiều giá trị văn hóa cố hữu là một trong những đặc tính tiêu biểu của cư dân Tây Bắc.

Khảo cứu cụ thể về sinh hoạt văn hóa, phong tục của một số bộ tộc người sinh sống ở vùng Hưng Hóa, các tác giả Đại Nam nhất thống chícho rằng: châu Thủy Vĩ có 3 loại người Mán: Mán Sơn Tử, Mán Dao và Mán Sừng. “Người Mán Dao dùng mực xăm vào mình làm mình rồng, rắn, chim muông hoặc cỏ cây trong một năm cứ ngày mồng 1 tháng Giêng hoặc người Thái Trắng) dùng chàm hoặc mực xăm hai chân, làm nhiều hình dạng, họ tin có thể trừ được yêu ma”. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, tục xăm mình là một trong những đặc trưng văn hóa của cư dân Đông Nam Á nhưng phong tục đó thường gắn với cư dân “thủy sinh”, tức các cộng đồng cư dân sống ở vùng sông nước, ven biển, hải đảo. Nhưng, qua mô tả trên đây chúng ta có thể thấy được những nét chung văn hóa và phổ rộng của phong tục này.

Các tác giả Đại Nam nhất thống chícũng cho biết: Người Mán Sơn Bán (Mán Sừng) thường lấy sừng muông thú đội ở trán. Họ rất sợ tiếng ếch nhái do vậy sống ở vùng lưng chừng núi. Phong tục này cũng tương tự như phụ nữ Hắc tộc (chủ yếu là Thái Đen? - TG) ở châu Quỳnh Nhai. Người ta thường dùng da làm thành cái sừng dài một thước rưỡi đội ở trên đầu. Về trang phục, cách thức để tóc, búi tóc giữa các tộc người cũng có nhiều nét riêng biệt và độc đáo. Đây cũng là một trong những tiêu chí quan trọng để phân biệt các nhánh trong cùng một tộc. Theo các sử gia triều Nguyễn thì cũng giống như người Mán, người Mèo (Hmông) cũng có 3 loại: Mèo trắng, Mèo đen và Mèo đỏ. Ở châu Văn Chấn, “người Mèo trắng, mặc toàn màu trắng, búi tóc, răng để trắng như người nước Thanh, quen rét không quen nóng” (12). Trong khi đó, “người Mèo đỏ, tóc đỏ nhợt, không giống người Mèo khác, họ rất sợ khí hậu ẩm thấp, nên thường tìm chỗ rất cao trên núi để làm nhà. Làm ruộng thì dùng lửa đốt nước, dùng dao moi đất để tra giống” (13). Có thể coi đây là phương thức canh tác truyền thống nhưng cũng là phương thức phù hợp, hiệu quả nhất của một tộc người vốn quen sinh sống trên các rẻo núi cao.

Khảo tả một cách cụ thể một số phong tục của cư dân vùng Tây Bắc, các sử gia triều Nguyễn cũng cho biết: Người Mán ở châu Trấn Yên có giống Quần Trắng, Quần đen. Mán Dao và Mán Cao Lan thì mặc cả màu đen và màu trắng. Người Mèo mặc bằng gai đay không nhuộm, người Xá mặc áo ngắn, ở châu Yên, phụ nữ Hắc tộc màu đen trong khi đó ở châu Mai, châu Đà Bắc người Bạch tộc mặc lẫn cả màu đen và màu trắng. Với châu Ninh Biên, phụ nữ chưa lấy chồng thì búi tóc ở đỉnh đầu nhưng nếu chồng đã chết thì búi tóc lệch về bên phải hoặc bên trái. Trong nhiều trường hợp, các cộng động cư dân có thể sống xen cư nhưng phong tục vẫn khác nhau.

Theo Đại Nam nhất thống chíthì: Người có bệnh thì cầu đảo quỷ thần, con trai sau khi kết hôn thì ở rể. Người trong họ có thể lấy nhau. Người chết có tục chia của. Về tang lễ, dân bốn huyện và châu Mộc dùng cả gia lễ và tộc hệ còn các châu khác thì đều hỏa táng. Họ cũng không kén chọn đất, không đắp mộ, không có giỗ kỵ mà chỉ có một lẽ chung trong năm gọi là “thân”. Với châu Mộc, lễ tang của tù trưởng (họ Xa) thì “dùng hỏa táng, mà quan quách và đòn đă cũng theo gia lễ; sau khi đã dùng lửa thiêu thì dùng gấm vóc để khâm liệm, dùng đất làm quan, dùng gỗ làm quách, xây đá làm phần mộ, ở phần mộ trồng cây cao vài trượng, trên cây treo vải lụa và chiêng trống” (14).

Như vậy, đến thế kỷ XIX, các tộc người sống ở vùng Hưng Hóa vẫn còn bảo lưu nhiều phong tục truyền thống. Các phong tục và giá trị văn hóa truyền thống đó được bảo tồn với một ý thức mạnh mẽ. Trong nhãn quan của các sử gia triều Nguyễn (những người chịu ảnh hưởng sâu nặng của tư tưởng Nho giáo) thì cư dân vùng Hưng Hóa đều khó “thuần phục”.

Trong cuộc sống và sinh hoạt văn hóa vật thể, nói chung cư dân vùng Tây Bắc phần nhiều đều ưa dùng cơm nếp. Trên bình diện so sánh khu vực chúng ta thấy, cho đến trước thế kỷ X ở những vùng có vĩ độ tương đối cao của lục địa châu Á bao gồm Tây Bắc (Việt Nam), Lào, Bắc và Đông Bắc Thái Lan, một phần bang Than và Khoxin (Myanmar), một phần Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc), miền Đông bang Assam (Ấn Độ), khu vực Đài Loan, Philippines, Nam Triều Tiên, Nhật Bản đã hình thành một “Vòng trồng lúa nếp” hay Không gian văn hóa lúa nếp. Trong thời gian đó, một bộ phận tương đối lớn vùng vĩ độ cao của bán đảo Đông Dương là nơi sinh sống chính yếu của những người lấy lúa nếp làm lương thực chính. Cũng như người Nhật truyền thống, cư dân trong khu vực đều có thói quen uống nước chè, ăn xôi hay bánh nếp (15). Tự bao đời, người Thái, người Mường... đã quen với nhịp chày giã gạo bên suối gần nhà. Đó chính là nhịp sống, là giai điệu kết nối cộng đồng. Trong quá trình phát triển mặc dù sự phân hóa xã hội đã trở nên khá sâu sắc nhưng ở nhiều địa phương, gặp năm đói, nếu trong tộc người có người nào tích trữ được lương thực hay có lúa sớm thì họ luôn sẵn lòng chia sẻ cho bà con họ tộc cùng ăn, không phải vay mượn. Đó là một truyền thống quý, thể hiện tinh thần cộng đồng cao của cư dân Tây Bắc.

Người Thái, Mường... thường làm guồng (cọn nước) để đưa nước lên các chân ruộng cao hoặc dùng ống vầu để múc nước, dẫn nước từ các khe suối xuống bản hay vào ruộng. Trong các thung lũng đồng thời là các trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội vùng Tây Bắc, trong cộng đồng khoảng 25 tộc người cùng sinh sống, người Thái, người Mường đã phát triển kỹ thuật làm ruộng nước khá hoàn chỉnh. Hệ thống thủy lợi từ lâu đã rất được coi trọng. Đó không chỉ là nguồn cung cấp nước cho việc sản xuất mà việc sử dụng, điều hòa nguồn nước còn tác động đến cơ cấu tổ chức của bản mường. Cơ cấu đó đã liên kết các bản mường sống trong thung lũng lại với nhau thành một khối thống nhất. Hầu như tất cả các xứ đồng trong thung lũng đều sử dụng nguồn nước từ một con suối lớn hoặc các chi nhánh của nó với hệ thống mương, phai, lai, lin. Nghiên cứu hệ thống cung cấp, phân phối nước có thể thấy năng lực và cách thức tổ chức xã hội của các mường. Trong không ít trường hợp, người có thế lực trong vùng (ví như Lang cun) không chỉ đảm đương chức năng quản lý xã hội mà còn giữ vai trò điều hành hệ thống thủy lợi. Nếu so sánh, có thể thấy hệ thống cung cấp nước của cư dân Tây Bắc có nhiều điểm tương đồng với cư dân nông nghiệp thung lũng khu vực Đông Bắc Á và Nhật Bản (16). Ngoài ra, trong môi trường còn có Quan nà hay Tạo nà chuyên trông coi đồng ruộng, trong đó trách nhiệm hàng đầu là thu thuế (ruộng công) và chăm lo thủy lợi. Như vậy, theo nhà dân tộc học Từ Chi, có hai đặc trưng cơ bản của xã hội nông nghiệp thung lũng là bóc lột trên cơ sở ruộng công và duy trì chặt chẽ chế độ tông tộc (17). Trong quá trình phát triển, các cộng đồng người Thái đã hình thành một chế độ quản lý, điều hành kinh tế. Ở nhiều mường, thóc lúa thu được đều được tập trung về “Kho thóc toàn mường” (día khẩu háng mướng). “Kho thóc toàn mương” trở thành nguồn hậu cần quan trọng cho những “đoàn quân” đi xa hay là cơ sở cho việc tiếp tục khai phá, mở rộng ruộng đất.

Đến thế kỷ XIX, trong mỗi châu (mà theo quan điểm khu vực học có thể coi là tiểu vùng sub-region), cùng với những đặc tính chung về tự nhiên và văn hóa, trong mỗi tiểu vùng vẫn thấy hiện hữu uy lực của những người đứng đầu các dòng họ, của mối quan hệ thân tộc. Theo đó, ở châu Yên, Sơn La, Mai Sơn, Tuần Giáo, châu Luân thì họ Cầm nối đời làm phụ đạo; ở châu Mộc, Đà Bắc là họ Xa; ở châu Yên có họ Hoàng, châu Thuận có họ Bạc; châu Lai là họ Đèo; châu Thủy Vĩ là họ Nguyễn; châu Mai là họ Hà, họ Mạc; châu Ninh Biên là họ Cầm, họ Lý; châu Văn Bàn là họ Nguyễn, họ Sầm; ở huyện Yên Lập họ Nguyễn, họ Đinh luôn giữ vai trò quản chế; huyện Văn Chấn là họ Cầm, họ Hà....

Nếu ghi chép của các sử gia triều Nguyễn là xác thực thì họ Cầm luôn là dòng họ lớn nhất ở vùng Hưng Hóa, giữ vai trò quản chế ở 6 châu; họ Xa ở 2 châu, một số châu khác có đồng thời hai dòng họ giữ vai trò chủ đạo. Số các dòng họ lớn ở Hưng Hóa là 14 gồm: Cầm, Xa, Sầm, Hoàng, Đèo, Mạc, Bạc, Lý, Lò, Nguyễn, Đinh, Quách, Bạch, Hà. Điều có thể thấy được là, uy danh, chế độ quản chế của các dòng họ cũng đã tạo nên sắc thái riêng biệt giữa các tiểu vùng văn hóa. Như vậy, mỗi dòng họ lớn luôn chiếm cứ một thung lũng hay một hệ thống các thung lũng và áp đặt, thực thi chế độ quản lý trên vùng đất đó. Nguyên tắc duy trì mối quan hệ và quyền lực của dòng họ là sự phát triển tiếp nối, thể hiện tính kế thừa của chế độ phụ quyền. Nhìn chung, quyền lực và tài sản đều được giao và tập trung về tay con trai trưởng. Con gái, con thứ chỉ được phân chia một phần tài sản và quyền lực chỉ rất hạn chế mà thôi.

Trong một không gian tự nhiên, xã hội rộng lớn, đến thế kỷ XIX các bộ phận cư dân vùng Tây Bắc vẫn thể hiện tính di biến động cao. Vì thế, uy danh và chính sách “khoan thử sức dân” của các tộc trưởng, châu trưởng có vai trò quan trọng. Do nhiều nguyên nhân, một số tộc người thường không muốn hoặc không thể định cư lâu dài trên một địa bàn cư trú. Các sử gia triều Nguyễn đã nhiều lần viết về hiện tượng “hễ người châu trưởng nào khéo vỗ về thì họ theo, nếu không khéo thì họ đem nhau đi châu khác” (18). Với châu Mộc “đất đai rộng, thóc lúa nhiều... thổ sản dồi dào, châu trưởng chia nhau quản trị, người nào cũng giữ phong vực của mình. Nhân dân thì lúc cày ruộng, lúc tập bắn, dân tự làm binh cũng giống như phép thủ binh đời xưa, người khéo vỗ về thì dùng được sức dân” (19).

Cũng cần phải nói thêm là, trong mối liên hệ văn hóa liên vùng, khi các tộc người cổ tiến xuống khai phá các vùng châu thổ, người ta bắt đầu biết và phải đắp đê để bảo vệ các ô trũng, không gian sinh tồn ở vùng hạ châu thổ. Và người Việt (hiểu theo nghĩa rộng của khái niệm này) đã học tập cách thức đắp đê của người Thái, người Mường, kỹ thuật canh tác lúa nước của người Thái. Đặt trong diễn tiến của mối liên hệ lịch đại, thành Cổ Loa cũng có cấu trúc ba vòng tương tự ba vòng thành Xuân Mứn ở Mường Thanh (20). Kiểu kỹ thuật xây thành Cổ Loa và kỹ thuật đắp đê. Điều thú vị là, ở Cổ Loa còn bảo lưu một “kho tàng” ngôn ngữ cổ không có trong tiếng Việt. Nhà dân tộc học Cầm Trọng coi đó là những từ có gốc từ tiếng Thái. Theo dòng mạch tư duy và luận đề khoa học đó, học giả Từ Chi từng đặt ra giả thuyết về sự hiện diện của “yếu tố Thái” sâu đậm, đặc sắc ở Cổ Loa, trung tâm chính trị thời cổ đại.

Trong mối liên hệ đối sánh, người Thái ở Tây Bắc có chế độ Pìa - Tạo, người Mường có chế độ Lang - Đạo. Tổ chức xã hội của người Thái và người Mường giống nhau trên nhiều nét lớn nhưng khác với đồng bằng. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng mặc dù người Thái vẫn canh tác nương rẫy nhưng chế độ Pìa - Tạo chỉ bóc lột trên cơ sở các ruộng canh tác lúa nước chứ không bóc lột nương rẫy. Thêm vào đó, họ cũng chỉ thu thuế ruộng công chứ không đánh thuế ruộng tư. Thứ đến là chế độ đó thống trị trên cơ sở quan hệ tông tộc. Các dòng họ lớn không chỉ quản chế một hay một số thung lũng mà mở rộng quyền lực của mình trên phạm vi rộng lớn. Tương tự như vậy, ở châu thổ sông Hồng, với các triều đại lớn như Lý, Trần, Lê... quan hệ tông tộc luôn có vai trò hết sức quan trọng (21). Sau khi thiết lập được vương quyền, quan hệ thân tộc luôn được mở rộng trên một không gian rộng lớn. Trải qua thời gian, quan hệ thân tộc có sự chuyển hóa thành quan hệ liên tộc, từ quý tộc thân tộc thành quý tộc đa tộc. Theo đó, “Những nét cơ bản của văn hóa đồng bằng sông Hồng từ nông nghiệp đến xây thành đến cơ cấu xã hội đều có tiền đề Thái” (22). Bên cạnh đó, người ta cũng thấy mối liên hệ vô cùng gần gũi giữa các mô - típ hoa văn Mường với phức hệ trang trí trên trống đồng Đông Sơn và tâm thức văn hóa thời đại Đông Sơn (23). Do vậy, nghiên cứu văn hóa truyền thống để hiểu người Kinh (Việt), ngược lại nghiên cứu về người Kinh là một trong những chìa khóa để hiểu thêm văn hóa truyền thống của các tộc người vùng Tây Bắc. Nói cách khác, muốn hiểu thấu đáo văn hóa của người Việt, chúng ta không thể không nghiên cứu các không gian, môi trường văn hóa khác trong mối liên hệ vùng, liên vùng trong diễn trình lịch sử, văn hóa dân tộc.

Chú thích:

1/ Lê Bá Thảo,Việt Nam - Lãnh thổ và các vùng địa lý , Nxb. Thế giới, H. 2002.

2/ Lawrence Palmer Briggs,The Ancient Khmer Empire, Vol. 41, Part 1, The Transation of the American Philosophical Society, 1951l David Chander,A History of Cambodia, Westview Press, 2008.

3/ Nguyễn Từ Chi,Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Sđd, tr 633.

4/ Cầm Trọng,Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam , Nxb. Khoa học xã hội, H., 1987, tr 69. Hơn thế, ở vùng Tây Bắc còn được coi là đất tổ của một số nhóm Tày vùng Đông Bắc. Người Tày ở Hà Giang, trong lời mo cúng ma tiễn người quá cố về với tổ tiên, có câu “pú dú nặm Te, tai Ta dú nặm Tao” (Ông nội ở sông Đà, bà ngoại ở sông Thao). Dẫn theo Hoàng Lương, Văn hóa các dân tộc Tây Bắc Việt Nam , sđd tr 30.

5/ Ngô Đức Thịnh, Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam , Sđd, tr 144. Về vấn đề “người Thái bản địa” và các đợt thiên di của người Thái, chuyên gia Thái học Cầm Trọng cho rằng: “có thể nói chắc chắn hơn, đợt thiên di của người Thái từ Bắc xuống Nam được bắt đầu tiến hành từ khoảng các thế kỷ đầu thiên niên kỷ thứ I sang đầu thiên niên kỷ thứ II sau Công nguyên. Đợt thiên di này đã được ghi chép tương đầy đủ trong các nguồn tư liệu bằng chữ Thái cổ và đặc biệt chính xác khi chính các nguồn tư liệu này lại ăn khớp với những câu chuyện truyền miệng của nhiều tộc người có tổ tiên từng tiếp xúc với tổ tiên người Thái. Đó là những múi thiên di của những nhóm Thái xưa đã từng sinh tụ ở miền đầu “sông Thao nước đỏ” chuyển dịch về Nghĩa Lộ, Sơn La và phía Nam tỉnh Lai Châu ngày nay. Những nhóm Thái đã sinh tụ ở đầu “sông Đà, sông Nặm Na” thiên di tới Mường Lay, Phong Thổ cùng với những thủ lĩnh và cư dân nói tiếng Tạng - Miến. Những nhóm Thái đã ở miền thượng lưu sông “Nặm Khoọng, Nặm U, Mường Then - Bỏ Té, Bó Rồmg” thiên di vào lưu vực Mê Nam để lập ra vương quốc Thái Lan hồi thế kỷ XIII; vào lưu vực sông Nặm Khoọng để lập ra vương quốc Lào hồi thế kỷ XIV và từ Lào một bộ phận đã di chuyển đến miền Tây Bắc nước ta”, Cầm TrọngNgười Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Sđd tr 70.

6/ Theo GS Trần Quốc Vượng, phát âm tiếng Thái là Mé nậm Châu Phìa, người Phương Tây nhầm lẫn nên có khi chỉ gọi từ đầu là Mênam, chỉ có nghĩa là “Sông Mẹ” (BT).

7/ Cầm Trọng, Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, sđd tr 368 - 372.

8/ Cũng cần phải nói thêm là, trên cơ sở khảo cứu văn bản và điều tra điền dã, cũng có quan điểm cho rằng, trước khi người Mường đến định cư ở Bi, Vang, Thàng, Động, ở đây đã có một số lớp cư dân Thái cổ sinh sống. Nhưng sau đó, vì một số nguyên nhân, lớp cư dân này đã di cư đến địa bàn khác hoặc họ đã hòa nhập với cư dân Mường và trở thành người Mường hiện nay. Xem Hoàng Lương,Những dấu tích của người Thái ở vùng Mường, Hòa Bình , Tạp chí Dân tộc học, số 3, 2001, tr 50 - 56.

9/ Ngô Đức Thịnh (Cb).Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam , Nxb Khoa học xã hội, H., tr 123

10/ Học giả người Pháp G. Condominas đã rất có lý khi cho rằng: “Sư cư trú của cư dân Đông Nám Á được đánh dấu bằng sự đối lập giữa cư dân vùng thấp, thường có mật độ dân số đông, với cư dân vùng cao, ở thưa thớt hơn nhiều và gồm rất nhiều tộc người. Ở phía bắc các tộc người này thường sống xen kẽ nhau và người ta có thể thấy nhiều tộc sống kề nhau trong cùng một thung lũng. Hơn nữa, đằng sau sự chia cắt kỳ lạ như vậy của các tộc người, người ta còn thấy một sự đa dạng đáng kinh ngạc về ngôn ngữ. Điều đó khiến cho vùng Đông Nam Á biểu hiện một sự đa dạng không đâu có trên thế giới”, G. Condominas, Văn hóa các tộc người trên bán đảo Đông Dương , Tạp chí Xưa & Nay, số 5 (06), VII, 1994, tr 12. Tham khảo thêm Ngô Đức Thịnh,Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, H., 2009, tr134.

11/Đại Nam Nhất thống chí, tập IV, 1997, tr. 298

12/Đại Nam Nhất thống chí, tập IV, 1997, tr. 299

13/Đại Nam Nhất thống chí, tập IV, 1997, tr. 299

14/Đại Nam Nhất thống chí, tập IV, 1997, tr. 272

15/ Watanabe Tadao,Con đường lúa gạo , Nxb Khoa học xã hội, H., 1988, tr 106 - 111.

16/ Nguyễn Văn Kim,Mấy nét về cấu trúc vận hành và quản lý của bộ máy quản lý nông thôn Nhật Bản, trong: Phan Đại Doãn - Nguyễn Trí Dĩnh (Cb):Tìm hiểu kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn ở một số khu vực Đông Á và Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc gia, H., tr 118 - 119.

17/ Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Nxb Văn hóa Dân tộc - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật , H., 2003, tr 645.

18/Đại Nam nhất thống chí, Tập IV, 1997, tr 301.

19/Đại Nam nhất thống chí, Tập IV, 1997, tr 301.

20/ Có tài liệu cho rằng thành Xam Mứn cho do người Lự xây dựng từ thế kỷ XIII nhưng theo nhà nghiên cứu Cầm Trọng, thành đã có từ trước thế kỷ XI - XII, bởi vì khi có cuộc thiên di của người Thái Đen do Lạng Chượng dẫn đầu từ Mường Lò đến thì tại Xam Mứn đã có thành rồi. Cầm Trọng, Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam , Sđd, tr 332 - 333.

21/ Có thể tham khảo Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Lý Công Uẩn và vương triều Lý”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2001;Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần , Nxb Khoa học xã hội, H., 1977, 1989, 1978;Nhà Trần và con người thời Trần , Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu Lịch sử và Văn hóa Việt Nam, H., 2004.

22/ Nguyễn Từ Chi,Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người , Sđd, tr 638.

23/ Trần Từ,Hoa văn Mường, Nxb Văn hóa Dân tộc, H., 1978.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

An Giang: 25 giải pháp của Hội thi Sáng tạo kỹ thuật được vinh danh
Ngày 14&15/6, tại TP. Long Xuyên, Hội đồng Giám khảo Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh lần thứ XIV (năm 2024–2025) đã tổ chức chấm chọn vòng chung khảo với sự tham gia của các chuyên gia đến từ các sở, ban, ngành cấp tỉnh, doanh nghiệp, giảng viên Trường Đại học An Giang, Trường Cao đẳng Nghề An Giang cùng các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh.
Đồng Tháp: Lan tỏa tinh thần sáng tạo trong Thanh Thiếu niên, Nhi đồng
Sáng ngày 16/6, Ban Tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Thanh Thiếu niên, Nhi đồng tỉnh đã tổ chức Lễ Tổng kết và Trao giải Cuộc thi lần thứ 18, năm 2025. Tham dự có Thường trực Ban Tổ chức Cuộc thi; đại diện lãnh đạo các sở ngành Tỉnh, UBND các huyện, thành phố; quý thầy cô giáo và các học học sinh.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.